Nguồn ảnh: Interrnet |
2. Trong văn học
cổ điển Trung Hoa, số lượng phong phú các tác phẩm thi thoại là minh chứng hùng
hồn cho thấy mức độ phổ biến rộng rãi các tác phẩm thơ ca cũng như sự phát triển
mạnh mẽ trong lĩnh vực phê bình thơ ca gắn liền với lực lượng các nhà phê bình khá
hùng hậu và ít nhiều đã có ý thức về một công việc có tính chất chuyên nghiệp.
Trong khi đó, ở Việt Nam thời trung đại, tình hình có phần khác biệt. Nạn binh
lửa đầu thế kỷ XV khiến cho tác phẩm thơ ca thời Lý- Trần, thời kỳ hưng thịnh của
thơ chữ Hán, số thì bị thiêu hủy, số thì bị thất truyền, mất mát, gây không ít
khó khăn cho hậu thế khi cố gắng gom góp, sưu tầm để thực hiện những bộ sách có
tính chất bảo tồn giá trị văn chương một thời rất đáng tự hào của người Việt.
Điều kiện in ấn cực kỳ hạn chế, lại bị chi phối bởi sự kiểm duyệt khá ngặt
nghèo của quyền lực các vương triều khiến cho tầm phổ biến tác phẩm thơ ca hầu
như hết sức hạn hẹp. Xu hướng đề cao sáng tác văn chương như là một sinh hoạt
văn hóa đậm chất cao nhã khiến cho người làm thơ, dù “lúc bình sinh nhiều có đến mấy nghìn bài” nhưng “không có ý trước thuật nên khó có khi nào thấy
được đầy đủ” (Thái Khác, Tựa Lã Đường di cảo). Họ thường ít có nhu cầu giới
thiệu tác phẩm của mình một cách rộng rãi mà chủ yếu để dành cho mình tự thưởng
thức hay mở rộng hơn một chút là dạy bảo cho con cháu và các học trò. Trong môi
trường văn chương cung đình, xướng họa, thưởng thức thơ văn là một hoạt động có
tính chất khép kín trong phạm vi vua tôi với định hướng chủ yếu là xưng tụng,
tán dương. Thực tế đó đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là lĩnh vực thưởng thức,
phê bình thơ ca không thể có được sự phát triển phong phú, đa dạng vì không có
sự phổ biến rộng rãi tác phẩm; không có số lượng người đọc đủ lớn và đa dạng để
thu nhận những phản hồi đa chiều, không thể hình thành được một lực lượng phê
bình thực sự, có vai trò đánh giá, thẩm định một cách khách quan, vừa toàn diện
vừa cụ thể giá trị, chất lượng nghệ thuật của các thi tập, thi lục, thi tuyển,...
và vì vậy mà loại tác phẩm có nội dung chuyên biệt bình phẩm thơ ca kiểu như
Thương Sơn thi thoại của Nguyễn Phúc Miên Thẩm chỉ là một trong vài hiện tượng
hiếm hoi trên thi đàn.
Trong tình hình đó, nhà thơ Việt Nam thời trung đại chỉ
còn biết “chọn mặt gửi vàng” ở một vài người bạn có tâm hồn đồng điệu. Số người
đọc hiếm hoi này, phần lớn cũng là những nhà thơ, những người bạn thân thiết được
tác giả tập thơ quý mến, trân trọng, tin tưởng, sẵn lòng chia sẻ, gửi gắm đứa
con tinh thần của mình với mong muốn có được phản hồi tích cực. Nhận được tập
thơ của tác giả, những người đọc tri âm, hoặc được tác giả nhờ cậy, yêu cầu, hoặc
tự mình thích thú mà viết những lời tựa, bạt, đề từ cho tập thơ. Nội dung của
những lời giới thiệu này đa phần thể hiện sự xúc động, hãnh diện nhưng dè dặt,
cẩn trọng, khiêm nhường khi trình bày quan niệm về thơ và những lời phẩm bình
giá trị, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm/tập thơ. Vì vậy, các lời tựa, bạt,
đề từ,.. chính là nguồn tư liệu chủ yếu, quý giá và hết sức phong phú mà nhờ
đó, chúng ta có thể tìm hiểu tư tưởng lý luận phê bình văn chương của người xưa
cũng như có thể xác định được sự tồn tại, vai trò quan trọng và đặc điểm của kiểu
hình người đọc tri âm.
3. Qua các văn
bản tựa, bạt, đề từ,.. do những người bạn của tác giả viết và đặt ở các vị trí
đầu hoặc cuối của tác phẩm/ tập thơ, chúng ta biết rằng những người đọc tri âm
này thường mang một đặc điểm chung, phổ biến: Đó là những người có kiến thức
uyên bác, có trình độ sáng tác thơ ca xứng tầm, có con mắt tinh tế để phát hiện
cái hay, đẹp, cái sâu sắc của thơ ca và quan trọng nhất, họ là những người có
tâm hồn đồng điệu với tác giả nhờ quá trình xướng họa, trao đổi, gần gũi, thân
thiết lâu dài, hoặc đã ngưỡng mộ từ trước nên xúc động, mừng rỡ khi có cái
duyên bất ngờ hội ngộ qua thơ. Đó là những kẻ “uống rượu gặp tri kỷ, thơ hướng đến chỗ chung đúc tính tình” (Nguyễn
Nghiễm, Tựa Quân trung liên vịnh tập), “tâm
đầu ý hợp, gặp nhau ngâm câu thơ, uống chén rượu” (Ngô Thì Sĩ, Tựa bài thơ
Gọi trung thu đến thưởng trăng), hoặc “đã
cùng giao du hơn 20 năm, xướng họa qua lại” (Phạm Nguyễn Du, Tựa Tây Hưng đạo
sử tập), hoặc “ngẫu nhiên cùng làm việc
nên khế hợp với nhau sâu sắc” (Hồ Sĩ Đống, Tựa Sứ Hoa tùng vịnh); hoặc tác
giả và người tri âm cùng tìm thấy một chí hướng qua tình yêu với trúc (Trần Thế
Xương, Tựa Phong trúc tập); hoặc người tri âm từ “lúc nhỏ đã được nghe danh tiếng” rồi “ đem lòng ái mộ” tác giả nhưng phải mãi đến sau này mới có duyên đọc
được tác phẩm của người mình ái mộ nên sung sướng, phấn khích mà cũng hết lòng
cẩn trọng khi viết lời bình phẩm cho thơ (Phạm Quý Thích, Tựa Đản Trai công thi
tập)....
Những người
như vậy hẳn nhiên là rất khó tìm được trong đời. Khi viết bài Tựa Hoa trình học bộ thi tập, Ninh Tốn đã
ghi nhận thực tế đó bằng một tấm gương xưa: “Ba ngàn học trò, Khổng tử chỉ cho Thương (Tử Hạ), Tứ (Tử Cống) là có thể
cùng nói chuyện thơ. Thơ khó nói như vậy đã lâu rồi”. Nguyễn Hành thì hết lời
than thở, rằng: Nhà thơ “kêu bằng văn chương
chữ nghĩa”, nhưng “ai là người nghe
thấy được” cái “âm thanh đặc biệt”
vang lên từ cõi lòng nhà thơ, “lại có thể
họa theo được, để nối tiếp tiếng kêu ấy mà kêu lên?” để “ở trên trời”, nhà thơ “nghe được tiếng kêu của họ?” (Lời dẫn
Minh quyên phả). Với những mối tình tri âm xuyên không- thời gian, nỗi hờn kim
cổ của nàng Tiểu Thanh may ra, hiếm hoi lắm cũng chỉ một Tố Như là có thể thấu
hiểu và an ủi được người khách phong vận xưa khi lặng lẽ khóc với những mảnh
thơ tàn. Có điểm qua thực tiễn sáng tác và phê bình thơ ca Việt Nam thời trung
đại mới hiểu rõ tâm sự của Nguyễn Trãi khi viết câu thơ “Người tri âm ít, cầm nên lặng” (Tự thuật 10), một cách nói gợi nhớ
quan điểm của Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long: “Tri âm thực khó thay! Âm thực khó tri mà người tri âm thực khó gặp. Gặp
được tri âm là sự nghìn năm có một”[ii].
(1;528).
Vì người đọc
tri âm khó tìm nên sự gặp gỡ của những tiếng lòng đồng điệu phải cần đến cái
duyên bèo nước, đến “con mắt xanh”
may mắn phát hiện, rồi nối kết trong lúc hội ngộ tình cờ. Khi viết bài Tựa sau
Tam chi Việt đông thi tập, Đỗ Tuấn Đại cảm thán rằng: “Ôi, bỏ ngoài hình hài để kết bạn chừ nay được mấy người, bèo nước gặp
nhau chừ, đâu chẳng duyên xưa”. Phan Thanh Giản thì xúc động nhớ lại mối
tình tri âm của mình kể từ lúc “vinh hạnh
có được cuốn Học văn dư tập của Diên Phương Trương tiên sinh, vui thích đọc liền
một hơi không rời tay” “kính cẩn ngưỡng
mộ tiên sinh, mong được ra mắt nơi long môn”; mãi về sau mới “có dịp ra mắt tiên sinh được một lần”
may mắn “được lọt vào mắt xanh”;
nhưng cũng phải đợi đến dịp “làm việc ở Nội
các cùng tiên sinh”, “gần gũi trao đổi”,
mới “thực sự nhận ra cái chí khí to lớn,
cái sở học sâu rộng, cái tài năng kỳ diệu của tiên sinh” (Tựa Học văn dư tập).
Cơ duyên tri ngộ bất ngờ, hiếm hoi hay cái tình giao du
suốt mấy chục năm gắn bó thắm thiết khiến cho người đọc tri âm luôn cảm thấy
xúc động, hãnh diện khi được tác giả tin tưởng, gửi gắm đứa con tinh thần cho
mình thưởng thức, phẩm bình nên việc tiếp nhận được quan trọng hóa, được thực
hiện với quy trình nghiêm túc và thái độ trân trọng, dè dặt. Nhận được tác phẩm/
tập thơ, người đọc tri âm nào là phải “nghiêm
mặt, sửa áo, đốt trầm mở đọc” (Vương Duy Trinh, Tựa Liên đàn kê thi loại
biên), nào là “xắn tay áo, đọc đi đọc lại
ba lần... nhân khi rỗi rãi, nghiêm trang đọc sách này, chưa từng rời tay”
(Đào Vũ Hương, Tựa Hàn các quyết khoa thi tập), nào là “lòng run sợ, nhưng từ chối lại không được... chần chừ ngày tháng, chưa
dám vội thêm vào những chỗ dị đồng” (Nguyễn Văn Siêu, Thơ viết cho Trần Đức
Anh)... Khi viết lời tựa, bạt, đề từ,.. để giới thiệu tác phẩm/tập thơ, người đọc
tri âm thường ý tứ viết thêm những dòng “trữ tình ngoại đề” bày tỏ sự khiêm nhường
hết mực, nào là “Nhân khi say, tạm cầm bút viết bừa, thực là
múa rìu qua mắt thợ, chỉ là gắng gượng đó thôi” (Nguyễn Hàm Ninh, Bạt Diệu
Liên thi tập), nào là mang “cái thẹn của
người tri âm, không thể lấy
cớ quê mùa mà từ chối, bèn kính đề ở đầu sách, để bày tỏ với những người cùng chí
hướng thích luận bàn về thơ” (Nguyễn Dưỡng Hạo, Tựa Phong trúc tập)...
Người đọc tri âm thường nhấn mạnh, thậm chí, đôi lúc có
phần cường điệu, ấn tượng, cảm xúc mạnh mẽ của mình khi đọc tác phẩm/tập thơ,
xem đó là một khoảnh khắc bừng sáng của tâm hồn dẫn đến cái nhìn thấu thị, phát
hiện; một cú hích tâm lý có thể kích hoạt nguồn động lực thôi thúc mình không
thể không viết ra những lời gan ruột để bày tỏ sự phát hiện, thấu thị ấy. Đọc
tác phẩm/tập thơ, họ không dằn được lòng cảm khái, bèn “mua rượu ngồi uống ở nơi trường đình, cởi áo bồi hồi thưởng thức các
bài thơ,.. lòng khách cảm thấy xa xăm vời vợi” (Cao Bá Quát, tựa sau Thương
sơn thi tập), hay thốt nhiên “chạnh niềm
băng ngọc, lại thêm cảm nỗi kim lan” (Phan Huy Ích, Tựa bộ sách Ngô gia văn
phái), “bất giác lòng rưng rưng thương xót, trăn trở hồi lâu, tựa
như có điều không thể biểu hiện thành tình cảm thông thường được” (Lê
Văn Đức, Bạt Kính Hải tục ngâm),.. Thậm chí, tâm hồn họ bất ngờ chao đảo,
sửng sốt “như rung rinh, nhảy múa, kinh
ngạc sợ mừng, thực có cái gì đã lay động tinh thần” (Ngô Thế Vinh, Tựa
Dương Mộng tập); “hoặc kêu hoặc gào, hoặc ca hoặc khóc, những
cái ngổn ngang dằn vặt nơi lòng bỗng nhiên bừng sáng, bằn bặt lặng thinh” (Ngô Thì Nhậm, Lời dẫn Hào man ai lục);...
Vào thời điểm đó,
người đọc thơ, bình thơ dường như đã tìm thấy, bắt được những tín hiệu có tần số
thích hợp để có thể thực hiện sự nối kết, tương thông kỳ diệu với người làm
thơ. Họ đọc thơ mà cảm thấy như người sáng tác cũng “đang khóc nức nở, vỗ ngực dậm chân, cười nói miên man, ôn tồn âu yếm,
nghẹn ngào rên rỉ, cảm thán bồi hồi.” (Phạm Nguyễn Du, Tựa tập thơ của Nguyễn
Kỳ Trai).... Họ tự thấy rằng mình như cũng
đang hóa thân vào giấc mộng thơ cùng với tác giả, đến mức “mơ và không mơ, ai mà biết được”; họ “viết mấy lời cho tập thơ về giấc mơ” mà có cảm giác như “cũng là nói mơ về nó mà thôi” (Doãn Uẩn, Bạt Dương mộng thi tập); họ khẳng
định rằng: “trong mơ lại xem mơ để tìm sự
hiểu biết tột cùng, há chẳng phải là sự cảm thông đó ư” (Phan Thanh Giản, Bạt
Dương mộng thi tập)... Sự chuyển nhập, hóa thân giữa người đọc thơ và người làm
thơ vửa là biểu hiện cho trạng thái thăng hoa, cấp độ tột cùng của sự đồng điệu
mà tình tri âm trong thơ có thể đạt tới; vừa cho biết rằng người đọc thơ cũng cần
có những khoảnh khắc nhập thần, linh hứng như người làm thơ để có thể viết nên
những lời phẩm bình có chất lượng nghệ thuật tương xứng với những vần thơ mà họ
cho là tuyệt bút.
Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến một thực tế là không phải
tập thơ nào đến tay người đọc tri âm cũng là tập thơ hay và không phải bài thơ
nào trong tập thơ cũng đều hay. Trong trường hợp này, giải pháp mà người đọc
tri âm thường lựa chọn là cố gắng tìm cho ra cái hay để khen tặng và cố ý bỏ
qua, không nhắc đến những cái chưa đạt, chưa hay nhằm có thể đền đáp trọn vẹn
cái tình tri ngộ với tác giả nhưng vẫn đảm bảo tính trung thực của lời bình phẩm
và giữ được nhân cách, tên tuổi của mình. Việc tránh tỏ ý khinh bạc, chê bai,
phê phán những chỗ chưa hay trong thơ còn xuất phát từ yêu cầu về tính chất cao
nhã, mực thước của văn chương thời trung đại và ý thức sâu sắc về phẩm chất
khiêm, cung, cần, thận của kẻ sĩ. Lê Quý Đôn từng lưu ý rằng: “Người ta nên tự xét mình trước, dù là người
có tài hơn mọi người trong một thời, cũng không thể cắt đứt được truyền thống
người trước. Nếu chỉ biết khoe khoang, khinh bạc, chê bai không thôi thì thật
là quái gở.” (tr 83) và “Văn chương
là của chung thiên hạ, ý kiến mỗi người mỗi khác, phân tích thì được chứ không
nên chê bai”. Nguyễn Phúc Miên Trinh cũng nhấn mạnh sự cẩn thận, dè dặt, tiết
chế, chừng mực trong phẩm bình văn chương để tránh hối tiếc về sau: “Tôi không bình tán bằng lời nói phù phiếm,
chỉ nói thực sự việc đến chừng mực nhất định. Tôi chỉ mong đánh giá cho đúng đắn
không thiên tư, không quá khen ngợi, có thể đặt niềm tin với đời nay mà cũng
còn chỗ cho đời sau có thể thay thế được lời nói của mình” (Tựa Vi dã hợp tập).
Nếu chẳng đặng đừng, người bình thơ thường chọn những cách góp ý tế nhị, theo
kiểu phê phán chung chung những nhược điểm thường thấy trong thơ và thói tệ của
người sáng tác thơ đương thời hoặc ngầm ý nhắc nhở trong lời khích lệ theo kiểu:
Tập thơ đã tốt rồi nhưng cũng cần tốt hơn nữa. Chẳng hạn, trong lời Tựa Tàng
chuyết thi tập của Mai Doãn Thường, Lê Hữu Kiều đã khéo léo viết lời khen tặng
trước rồi sau đó mới nhấn mạnh thêm rằng: “Tuy
nhiên tôi cũng có điều muốn giãi bày cùng ông. Ôi, nghĩa lý không cùng tận, văn
chương không bờ bến. Ông đã có hoài bão, sẵn tài hoa, lại không chán nản việc học;
đã tinh lại mong đi đến chỗ tinh hơn, đã cao lại mong tiến lên bậc cao hơn. Tứ
thơ bay với mây gió, lời thơ mở được núi non, xa có thể ngang vai với các bậc đại
gia thời Tam Đường, gần có thể so sánh vẻ đẹp kiệt tác của các danh công ở nước
ta. Đấy là điều mà tôi mong mỏi ở ông Mai Hồ”.
Vì chỉ chú trọng vào cái hay nên giọng điệu phổ biến trong
các lời phê bình thường là tán dương, khích lệ một cách sảng khoái, tâm đắc, nhằm
đề cao, tô điểm, làm rõ thêm vẻ đẹp của tác phẩm/tập thơ. Lời bình của người đọc
tri âm trong các bài tựa, bạt, đề dẫn,.. cũng hết sức trau chuốt, giàu hình ảnh,
cảm xúc, ý tứ tế nhị, tao nhã, ngôn từ cô đọng, hàm súc và thường chỉ nêu những
cảm nhận chung, khen ngợi trên tinh thần tổng thể, bao quát hơn là đi sâu, giới
thiệu chi tiết một vài bài thơ có thể xem là tiêu biểu để làm minh chứng cho cảm
nhận của mình, chẳng hạn như: “Thơ ông
mênh mông như sông dài dổ biển, cô cao như cánh hạc lưng trời, khí cách của thơ
thì già dặn, âm vận thì du dương. Lại có bài như trúc biếc mây xanh, vang trong
gió chiều, lướt trong tuyết lạnh, có lẽ đó là những bài thơ bất đắc ý của ông
nhưng thực ra nó lại là những bái thơ bất đắc lực của ông vậy”.( Phan Huy
Chú, Bạt Dương Mộng tập), “Thơ ông vừa yêu kiều như thiếu nữ du xuân vừa
hùng hồn như tráng sĩ xung trận. (Phan Trứ, Tựa Đông Khê thi tập), “Những bài thơ thuật hoài thì trầm uất, xung
đạm mà không vu khoát, thương cảm mà không thê lương, tiêu tao mà không oán
thán. Những bài thơ thù tặng thì đẹp đẽ, điển nhã; những bài thơ phẩm đề thì
phong phú mà hùng hồn. Có lẽ là không buông thả mà trở thành mẫu mực một nhà vậy!”(
Lê Văn Đức, Tựa Đông Khê thi tập),... Đôi chỗ, lời khen tặng có phần khoa
trương, cường điệu khi người bình thơ có ý so sánh thơ của bạn mình với thơ của
người xưa, kiểu như: “Thơ của ông hùng hồn
sâu rộng, khéo đạt tới cái chân cơ, ý tứ tinh thâm, lời lẽ đẹp đẽ, phong cách
phiêu dật như Đào Uyên Minh, câu chữ điêu luyện như Đỗ Tử Mỹ” (Ninh Tốn, Tựa
Hoa trình học bộ thi tập) hay “Lời thơ rõ
ràng mà sâu sắc, nhã nhặn, đi đến chỗ ân cần mà trung hậu. Như thế đã gần với
Kinh Thi rồi chăng?” (Bùi Trực, Tựa Nghệ An thi tập)...
Đặc biệt, sức chi
phối phổ quát, sâu sắc của quan niệm thi
ngôn chí thể hiện rất rõ trong lối phê bình thơ chú trọng mối quan hệ giữa
vẻ đẹp của thơ với vẻ đẹp của tâm hồn người sáng tác thơ. Việc khen thơ kết hợp
với khen người làm thơ xuất phát từ quan niệm thơ chính là người, thơ là nơi in
đậm dấu ấn tâm hồn, phẩm chất, tài hoa, cá tính,.. của tác giả, “đọc lời thơ mà như thấy con người” (Trần
Cao Đệ, bài Dẫn về việc họa thơ của Bình chuẩn sứ Đặng đại nhân). Trong trang
cuối tập thơ Rừng chuối, Cao Bá Quát viết: “Phẩm
chất của người là phẩm chất của thơ. Phẩm chất của người cao thì phẩm chất của
thơ cao.. Xem người thì có thể biết thơ” . Nguyễn Đức Đạt khẳng định: “Văn như con người của nó. Văn thâm hậu thì
con người của nó trầm mà tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa;
văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của
nó cương mà nhanh; văn uyên sâu thì con người của nó thuần túy mà đúng đắn”
(Nam Sơn tùng thoại). Ngô Thì Nhậm thì không tiếc lời ngợi ca vẻ đẹp kỳ vĩ,
tráng lệ được miêu tả trong thơ để nhấn mạnh rằng đó là những hình ảnh được
khúc xạ qua một hồn thơ lớn lao, là sự trình hiện con người và cá tính mạnh mẽ
của nhà thơ: “Ngũ sắc văn chương của trời
đất đệt thành một bức gấm, một trăm tám vạn âm của tầng trời Thái Thanh gõ lên
thành một tiếng, ánh sáng rực rỡ của ba chòm sao và hai mươi tám vì tinh tú tụ
lại thành một tinh cầu, nước của trăm sông ngàn suối dồn về thành vụng lớn,
không phải là hạng người có đại lực, đại tâm tư, đại kinh vĩ thì không đương nổi
như thế” (Tựa Cẩm Đường thi tập). Khen thơ kết hợp với việc khen người làm
thơ là một cách để thể hiện sự đồng điệu, sẵn sàng chia sẻ giữa người đọc tri
âm với người sáng tác, bởi tiêu chí quan trọng để một tình bạn thông thường có
thể đạt tới mức độ tri âm là người đọc thơ, bình thơ phải thấu hiểu được hoài
bão, tính cách và sẵn lòng chia sẻ uẩn khúc day dứt, trăn trở sâu kín trong tâm
hồn người làm thơ, những điều vốn không thể nói hết qua câu chữ.
5. Tính cao nhã,
quy phạm của thơ xưa đòi hỏi người đọc tri âm, với tư cách “siêu người đọc”, “người
đọc lý tưởng”, không chỉ cần có con mắt tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, tầm đón nhận,
trình độ sáng tác, cảm thụ, thẩm định tác phẩm ở đẳng cấp tương xứng mà còn đòi
hỏi tình cảm thiết tha trân quý, sự tương thông, hòa hợp trọn vẹn về hoài bão,
chí khí, nhân cách,.. với người sáng tác. Do những yêu cầu có tính chất lý tưởng
này mà lối phê bình của người đọc tri âm trong thơ ca trung đại Việt Nam thường
không tránh khỏi bị chi phối sâu sắc bởi ấn tượng, cảm xúc đậm tính chủ quan,
thậm chí, đôi khi không tránh khỏi cái nhìn khuôn sáo, phiến diện, xu hướng tán
dương, đề cao cực đoan. Tuy nhiên, xét đến cùng, trong bối cảnh đặc thù của văn
chương trung đại Việt Nam, kiểu hình người đọc này vẫn đóng vai trò quan trọng
trong việc ghi nhận, thẩm định giá trị của những thành tựu văn chương một thời
đại vừa giúp nâng tầm của tác phẩm và nhà thơ thông qua những phản hồi tích cực.
Bước vào
thời kỳ hiện đại, khi tác phẩm được phổ biến với số lượng ấn bản lớn; khi độc
giả được mở rộng ở nhiều đối tượng, tầng lớp với tầm đón nhận đa dạng, phức tạp;
khi phê bình văn học đã phát triển thành một lĩnh vực có tính chất khoa học,...,
kiểu hình người đọc tri âm với lối phê bình đậm chất trực cảm, say sưa bay bổng
cùng những ấn tượng chủ quan, thành thực khóc cười cùng vẻ đẹp tao nhã trong
thơ xưa hẳn nhiên phải dần dần nhường lại vai trò chủ lực cho một kiểu hình người
đọc lý tưởng khác. Đó là những người phê bình chuyên nghiệp với cái nhìn tỉnh
táo, khách quan, có thể giải quyết thỏa đáng, hài hòa hơn mối quan hệ giữa tình
cảm với lý trí trong việc thẩm bình tác phẩm, định hướng độc giả và có xu hướng
tiếp cận các trường phái lý luận phê bình phương Tây ngày càng sâu rộng hơn.
NGUYỄN KIM CHÂU
Bài đã đăng trên Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số 1.2020.
[i]
Tất cả trích dẫn từ các bài tựa, bạt, đề từ,.. trong bài viết này đều được dẫn
từ “Mười thế kỷ bàn luận về văn chương” (tập 1) (2007) do nhóm tác giả Phan Trọng
Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, NXB
Giáo dục, Hà Nội và “Tuyển tập thi luận Việt Nam thời trung đại (thế kỷ X- XIX)
” (2015) do Nguyễn Thanh Tùng biên soạn, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[ii]
Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo dịch, NXB Văn
học, Hà Nội, trang 528.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét