1. Khi bàn
về “Sinh thái học trong những nền văn
minh cổ”, Johnson Donald Hughes đã trình bày ý tưởng về một sự lựa chọn định
mệnh ở thời Hi Lạp cổ đại, theo đó Theophratus (372- 286 TCN), người được Hughes gọi là cha đẻ của sinh thái học, đã sớm nhận thức rằng tự nhiên là một hệ thống
sự sống (System of living being), trong đó, mỗi sinh thể, bao gồm cả con người,
đều tồn tại nhờ quan hệ hài hòa với các sinh thể khác và đều có vai trò nhất định
trong sự vận hành của toàn hệ thống.
Tuy nhiên, theo J.D.Hughes, vào thời điểm
đó, quan điểm của Theophratus đã bị buộc phải nhường chỗ cho quan điểm của
Aristote cho rằng mục đích cuối cùng của mọi sự tồn tại là phục vụ cho con người,
một quan niệm dễ được sử dụng để biện minh cho quyền khai thác tự nhiên của con
người với tư cách vị lãnh chúa của muôn loài. Chính sự lựa chọn này đã dẫn đến hệ quả là suốt một thời gian rất dài, vai trò
quan trọng của thế giới tự nhiên
ít được chú ý trong lịch
sử triết học phương Tây và quan hệ thẩm mỹ giữa con người với thế giới tự nhiên
cũng vì vậy mà chuyển biến trong xu hướng ngày càng tách rời, thiên lệch[1].
Quan niệm về cái đẹp của con người luôn vận động,
biến đổi theo thời gian. Những quan niệm càng cổ xưa càng có xu hướng gần gũi với
tự nhiên. Những bộ đồ lông thú, lông chim, những hình xăm của con người thời
nguyên thủy,.. không chỉ giúp họ hòa nhập vào tự nhiên để săn bắt, tồn tại mà
còn thể hiện quan niệm về sự “bắt chước” những vẻ đẹp của tự nhiên. Tuy nhiên,
khi nghệ thuật bắt đầu chuyển sự chú ý từ chỗ mô phỏng, sao chép tự nhiên đến
chỗ sáng tạo những hình thức mới, con người dần tin tưởng và đi đến chỗ xác quyết
một cách tự hào rằng trí tuệ siêu việt của mình đã mang lại những giá trị thẩm
mỹ chưa từng có trong tự nhiên và vì vậy, những vật thể nhân tạo mới thực sự là
những sản phẩm hoàn hảo và lý tưởng về mặt thẩm mỹ. Ronald Helburn cho rằng đó
chính là nguyên nhân dẫn đến một thực tế là “ở thời đại của chúng ta, các bài viết về mỹ học hầu hết chỉ luận bàn về
nghệ thuật mà rất hiếm khi hướng đến vẻ đẹp của tự nhiên” , thậm chí, “mỹ học còn được một số tác giả giữa thế kỷ
(XX) định nghĩa như là một thứ triết
học về nghệ thuật” và “đặc điểm của con người đương đại, như chúng
ta biết, là một người lạ bị bao quanh bởi thế giới tự nhiên lãnh đạm, vô nghĩa và
phi lý”[2].
Chọn xuất phát điểm từ nhận thức về sai lầm của
con người trong tiến trình văn minh hóa khi đề cao giá trị thẩm mỹ của các sản
phẩm nhân tạo mà “lãng quên những vẻ đẹp
của tự nhiên”[3],
mỹ học sinh thái nhanh chóng trở thành một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ và đầy
triển vọng của mỹ học phương Tây đương đại. Kế thừa những thành tựu của Mỹ học
châu Âu, Bắc Mỹ thế kỷ XVIII- XIX và phát triển dựa trên nền tảng triết học của
chủ nghĩa sinh thái nhân văn, mỹ học sinh thái không chỉ nghiên cứu tính thẩm mỹ
của thế giới tự nhiên mà còn tìm hiểu xem những trải nghiệm, sở thích thẩm mỹ,
những hiểu biết về vẻ đẹp của thế giới tự nhiên đã ảnh hưởng như thế nào đối với
quan niệm về cái đẹp và những hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của con người. Với định
hướng “kết hợp các nghiên cứu về tính thẩm mỹ của thế giới tự nhiên, bao gồm
các vật thể tự nhiên và các tổng thể lớn hơn như hệ sinh thái, vườn, kiến trúc
cảnh quan, môi trường, quy hoạch đô thị và các mối quan hệ giữa các phương thức
đánh giá thẩm mỹ khác nhau phù hợp với những lĩnh vực khác nhau này” (Ted
Loadvine)[4],
mỹ học sinh thái được đánh giá như là một phản ứng đảo cực nhằm bù đắp những
khiếm khuyết trong sự quan tâm, lý giải mối quan hệ thẩm mỹ giữa thế giới tự
nhiên với con người bằng cách chuyển
tiêu điểm sang các vấn đề liên quan đến quy luật và giá trị thẩm mỹ của sinh
thái tự nhiên. Sự phát triển của mỹ học sinh thái nhờ đó mà có những đóng góp
đáng kể trong việc khắc phục tình trạng con người cứ “khư khư giữ lấy vai trò của một chủ thể có tiếng nói như một đặc quyền
riêng biệt” mà không biết lắng nghe những tiếng nói từ trong sự im lặng sâu
thẳm của tự nhiên (Christophe Manes)[5].
Trong khi đó, ý tưởng về mối quan hệ gắn kết,
hòa hợp của con người với thế giới tự nhiên lại được chú ý và đề cao từ rất sớm
trong tư tưởng Thiền Tông và Lão Trang, những triết thuyết chứa đựng nguồn tài
nguyên phong phú của trí tuệ sinh thái phương Đông. Trong quan niệm của các triết
thuyết này, thế giới tồn tại dựa trên cơ sở nguyên lý thống nhất và toàn vẹn của
một chỉnh thể. Thế giới là một, con người chỉ là một phần tử, có quan hệ bình đẳng,
hòa hợp, nối kết chặt chẽ với vũ trụ, với thế giới tự nhiên. Đặc biệt, tư tưởng
Lão Trang không chỉ đề cập đến sự hòa hợp trong một chỉnh thể thống nhất
mà còn quan tâm đến việc lý giải bản chất sự tồn tại của vũ trụ, của vạn vật và
đề xuất một cách ứng xử đúng đắn trên cơ sở những quy luật được nhận thức, đúc
kết từ mối quan hệ giữa thế giới tự nhiên với con người. Tinh thần đề cao vai
trò của thế giới tự nhiên cũng có những ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm mỹ học Lão-
Trang mà cốt lõi của nó là đề cao vẻ đẹp
của tự nhiên như là một chuẩn thẩm mỹ chi phối quan niệm định giá cái đẹp trong
mọi lĩnh vực của thế giới và đời sống. Đây chính là bằng chứng cho thấy mỹ
học sinh thái hiện đại có thể khai thác nhiều giá trị tiềm năng từ triết thuyết
cổ xưa này.
2. Nho giáo đặc
biệt quan tâm đến vai trò của con người đối với việc tổ chức thiết chế chính trị,
cải tạo xã hội trong khi tư tưởng Lão Trang lại chủ trương đưa con người trở về
với cội nguồn tự nhiên để tìm lại căn tính của mình bằng cuộc sống giản phác,
thuần hậu, hài hòa với môi trường tự nhiên. Chủ trương đó bắt nguồn từ nhận thức
về Đạo, một khái niệm căn cốt mà nội
hàm phong phú và phức tạp của nó cơ bản là hướng tới chỗ đề cao vai trò của thế giới tự
nhiên.
Trong Đạo đức kinh (ĐĐK), Lão Tử xem Đạo là bản thể khởi nguyên, là cội nguồn
của mọi sự tồn tại: “Đạo sinh nhất, nhất
sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật” (Chương 42)[6].
Đạo đứng trước cái MỘT với ý nghĩa nhấn
mạnh nguyên lý Độc hóa, hay nói cách khác là “sự sáng tạo của vạn vật không có ai làm chủ mà do chúng tự hóa”[7]
giống như “các ngọn gió thổi vạn cách
khác nhau nhưng chúng đều tự sinh ra”[8].
Vì có trước mọi thứ, Đạo là một biểu
tượng gốc, một hình tượng nguyên hợp, bao trùm, lớn đến mức không thể nhìn thấy
được. Nó vượt khỏi khả năng quan sát, sự hiểu biết của con người, nên không thể
phân tích, lý giải, gọi nó là Đạo, gượng
cho là lớn (chương 25- ĐĐK). Trong Nam
Hoa kinh (NHK), Trang Tử giải
thích rằng: “Đạo thì tự bản, tự căn. Khi
chưa có trời đất, đạo đã có rồi. Đạo sinh ra quỷ, sinh ra đế; sinh ra trời,
sinh ra đất. Ở trước Thái Cực mà chẳng gọi là cao; ở dưới lục cực mà không gọi
là sâu; sinh ra trước trời đất mà không gọi là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng
gọi là già” (Đại tông sư)[9].
Đạo cũng là con đường vận động của vạn vật
theo quy luật tự nhiên, một kiểu chương trình đã được cài đặt sẵn; một sự sắp xếp,
an bài để hòa hợp, thích nghi; một quy trình đã hoàn thiện đến từng công đoạn,
trong đó, mỗi mảnh ghép, bộ phận, chi tiết đều có một vai trò nhất định, không
thể thay thế, tháo lắp mà không phá vỡ quy trình vận hành hoàn hảo của nó. Định
đề “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên
pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên” (Chương 42- ĐĐK) cho chúng ta biết rằng, trong
quan niệm Lão- Trang, con người chỉ đóng vai trò một phần tử thuộc tập hợp, một
yếu tố nằm trong chuỗi liên kết tương tác với các yếu tố khác của hệ thống cho
nên con người phải biết thuận theo lẽ tự nhiên, không nên can thiệp vào quy
trình vận động của tự nhiên. Mọi tác động của con người vào chu trình vận hành đó
nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu văn minh hóa đều khiến con người phải trả một
cái giá rất đắt: Sự tàn phá môi trường, hủy hoại không quyển sinh thái, con người
bị tha hóa trong bi kịch của sự can thiệp, biến cải trái quy luật và cuối cùng
phải đi đến chỗ diệt vong.
Có một sự
tương đồng khi triết học, thần học phương Tây cũng từng đề cập đến khái niệm Scala Naturae hoặc The great chain of being (chuỗi kết nối vĩ đại của sự tồn tại). Đó là chuỗi kết nối do Chúa tạo ra, bắt đầu từ
Chúa đến các thiên thần, quỷ dữ, những ngôi sao, mặt
trăng, vua, công chúa, quý tộc, người bình dân, các loài thú hoang dã, các loài
động vật thuần hóa, cây cối, những loài thực vật khác, đá quý, kim loại quý và
những khoáng chất khác. Tuy nhiên, trong quan niệm Cơ đốc giáo, “thế giới tự nhiên chỉ là biểu tượng cho vinh
dự và sự thống trị của Chúa”[10],
nó thuộc về những bậc thấp nhất trong chuỗi kết nối vĩ đại của sự tồn tại.
Trong khi đó, định
đề xác lập mối quan hệ giữa con người với các yếu tố khác của hệ thống được nêu
trong ĐĐK lại nhằm khẳng định rằng tự nhiên mới là yếu tố đóng vai trò bao
trùm, chi phối toàn bộ sự vận hành của vũ trụ và sự sinh tồn của vạn vật. Khái niệm tự
nhiên ở đây được hiểu là bản tính vốn có của vạn vật khi chưa bị con người
tác động vào nên sẽ không lấy làm lạ khi triết thuyết Lão- Trang luôn đề cao
vai trò của thế giới tự nhiên, đặc biệt là những vẻ đẹp thuần khiết của thiên
nhiên, bởi lẽ, đó chính là sự thể hiện sinh động nhất quy luật tồn tại và phát
triển của vạn vật theo căn tính tự nhiên.
Trong ĐĐK và NHK có hẳn một thế giới tự nhiên
cực kỳ phong phú bao gồm các hiện tượng, vật thể, các loài cây cỏ, cá, sâu bọ, chim
chóc, muông thú,… Hầu hết những hình ảnh này đều được sử dụng như là những dẫn
dụ sinh động nhằm giúp cho nhà tư tưởng có thể đúc kết và chứng minh một cách
hùng hồn quy luật sinh tồn theo bản tính tự nhiên của vạn vật. Trong số này, Nước được Lão Tử và Trang Tử đề cập đến
nhiều lần nhất với ý nghĩa biểu tượng cho tính chất chảy tràn, xuyên thấm, chi
phối của Đạo trong mọi sự sống. Chẳng
hạn, Đạo được so sánh với hình ảnh nước
nằm ở dưới thấp nên “Sông và biển”
mới là “vua của trăm hang” (chương 66-
ĐĐK) và vạn vật đều phải hướng về nó; vì vậy, “Bậc thượng thiện giống như nước. Nước hay làm lợi cho vạn vật mà không
tranh. Ở chỗ người người đều ghét nên gần với Đạo” (chương 8- ĐĐK); không
gì mềm yếu như nước nhưng nó lại có khả năng công phá cái cứng rắn (chương 78-
ĐĐK). Ngoài hình ảnh nước, bài học sinh tồn của cây cỏ và loài vật cũng được sử
dụng phổ biến làm chỗ dựa vững chắc cho những kiến giải về căn tính tự nhiên. Lão Tử nhấn mạnh: “Muôn vật cây cỏ sống đều mềm yếu, chết mới
khô cứng nên cứng rắn là đường chết, mềm yếu là đường sống” (Chương 76- ĐĐK).
Trang Tử thì dùng hình ảnh con ve và chim cưu nhỏ chỉ bay lên được cây phương
cây du nhưng cũng vui mà chẳng cần học đòi chim bằng bay qua biển lớn (Tiêu dao du- NHK) trước hết là để nói về
mối quan hệ giữa cái lớn với cái nhỏ, cái “đại trí” và “tiểu trí” nhưng, mặt
khác cũng hàm ý khuyên con người phải biết sống an yên, tự tại theo bản tính tự
nhiên của mình, đừng tham cầu, bắt chước kẻ khác. Cách giải thích sau đây về “Thiên” và “Nhân” trong NHK thể hiện khá rõ quan niệm cốt lõi của tư tưởng Lão
Trang về vai trò của tự nhiên: “Ngựa bò bốn
chân, đó là Trời; ràng đầu ngựa, xỏ mũi bò, đó là người. Cho nên, đừng lấy Người
giết Trời, đừng lấy nhân tạo mà giết Mệnh” (Thu thủy-NHK). “Mệnh” ở
đây cũng được hiểu là căn tính tự nhiên của vạn vật. Vì đó là bản tính, trời
sinh ra vốn đã vậy, nên bất cứ sự can thiệp nào của con người đều dẫn đến hậu
quả làm tổn hại thiên tính. “Chân vịt thì
ngắn, cố mà nối dài nó sẽ khổ. Chân hạc thì dài, cố mà làm cho ngắn nó sẽ đau”
(Biền mẫu- NHK). Trên cơ sở nhận thức
đó, Trang Tử kết luận một cách hùng hồn rằng: “Theo trời là nguồn gốc của mọi điều tốt lành, còn theo người là nguồn gốc
của mọi đau khổ, tai họa” (Thu thủy- NHK)
và “Biết được chỗ làm của trời là biết
thuận theo cái lẽ tự nhiên của trời đất mà sống” (Đại tông sư- NHK)… Lấy thế
giới tự nhiên làm chuẩn mực để đúc kết quy luật và trừu xuất phạm trù bản thể
luận, rõ ràng, tư tưởng Lão- Trang là triết thuyết hướng tới và đề cao vai trò
của thế giới tự nhiên, lấy sự tồn tại, phát triển của vạn vật theo bản tính tự
nhiên làm yếu tố cơ bản để xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan của mình.
3. Tinh thần tôn trọng, đề cao vai trò của thế
giới tự nhiên không chỉ là nền tảng cho thế giới quan, nhân sinh quan của tư tưởng
Lão Trang mà còn có ý nghĩa định hướng nhận thức về tính thẩm mỹ của thế giới tự
nhiên. Do đề cao vai trò của căn tính tự nhiên đối với sự tồn tại của vạn vật, nhận
thức về tính thẩm mỹ của thế giới tự nhiên trong tư tưởng Lão- Trang có xu hướng
thiên về phía đề cao cái đẹp như là một thuộc tính khách quan của vạn vật, nằm
ngoài sự chi phối bởi ý thức chủ quan của con người. Bản thân mỗi sinh thể đều tồn
tại theo căn tính tự nhiên của nó và có cơ chế tự điều chỉnh để đạt tới mức phù
hợp cao nhất với thể tính nhằm đảm bảo tồn tại cân bằng, hài hòa trong quan hệ
nối kết chặt chẽ với các sinh thể khác và, bằng cách đó, có thể tạo nên sự toàn
vẹn của thế giới dựa trên nguyên lý thống nhất những cái khác biệt, đa dạng,
phong phú. Cho nên, về bản chất, mỗi sinh thể vốn đã đẹp, một vẻ đẹp tự thân, hoàn
hảo, phù hợp với căn tính tự nhiên của nó và chỉ có như vậy nó mới có thể tồn tại,
phát triển. Đem cái mình cho là hay, là đẹp rồi áp đặt, cưỡng ép mọi sinh thể
khác phải theo chuẩn thẩm mỹ của mình hay bắt chước vẻ đẹp của những sinh thể
khác mà không tôn trọng căn tính của mình đó là điều trái lẽ tự nhiên.
Thiên Biền
mẫu trong NHK luận giải khá rõ quan niệm đề cao phẩm chất tự nhiên như là một
thuộc tính khách quan của vạn vật: “Vật
nào cũng có chân tính tự nhiên. Chân tính đó tự nhiên cong thì không cần đến
móc, tự nhiên thẳng thì không cần dùng đến dây, tự nhiên tròn thì không cần
dùng đến cái quy, tự nhiên vuông thì không cần dùng đến cái củ.”[11]. Căn tính tự nhiên của vạn
vật quyết định hình thể của nó và bởi vì hình thể đó phù hợp với căn tính của
nó nên hình thể đó là đẹp. Không thể lấy ý thức cảm tính, quan điểm đánh giá chủ
quan của con người để cho rằng cong là xấu, còn tròn và thẳng mới là đẹp. Ngược
lại, phải lấy “cái phương của đại nghĩa
mà nói, lấy cái lý của vạn vật mà luận” (Thu thủy- NHK), “phải thuận
theo tính tự nhiên của vạn vật mà đừng theo ý riêng của mình” (Ứng đế vương- NHK), không nên đứng từ
góc nhìn chủ quan, thiên kiến áp đặt của Vật
mà phải đứng từ góc nhìn của Đạo để
đánh giá, thẩm định đẹp xấu, quý tiện: “Lấy
con mắt Đạo mà xem thì vật không có quý tiện. Lấy Vật mà xem thì vật có quý có
tiện vì bởi vật nào cũng xem mình là quý nên khi sánh với vật khác, thường cho
đó là tiện” (Thu Thủy- NHK). Cái
được gọi là phù hợp, là đẹp đối với sự vật này lại trở nên không phù hợp hoặc
không đẹp đối với một sự vật khác. Tây Thi nhăn mặt thì mọi người cho là đẹp
nhưng một người đàn bà khác bắt chước nhăn mặt thì mọi người phải đóng cửa, bỏ
chạy (Thiên vận- NHK). Người thấy Mao
Tường, Lệ Cơ thì cho là đẹp nhưng cá thấy thì lặn mất (Tề vật luận- NHK). Trang phục đối với người là lễ, là thời trang,
là đẹp nhưng vượn khỉ cho mặc áo người ắt chúng sẽ cắn bứt, cào xé, vứt bỏ hết (Thiên vận- NHK). Nhạc thiều với người là
nghệ thuật, là vẻ đẹp cao nhất của âm nhạc nhưng tấu cho chim biển nghe thì nó
bỏ ăn, u sầu mà chết (Chí lạc- NHK)...
Cân bằng, hài hòa vốn là một tiêu chuẩn để
đánh giá cái đẹp theo quan niệm của con người xưa nay nhưng trong thực tiễn
sinh tồn của vạn vật, không ít những sinh thể được trời phú cho một hình thể
không cân xứng. Với những trường hợp này, sự bất đối xứng lại là một phẩm chất
tự nhiên, nên không thể lấy quan niệm thẩm mỹ phổ biến mà định giá. Chẳng hạn, ở
thiên Dưỡng sinh chủ (NHK), Trang Tử
nhắc việc Công Văn Hiến ngạc nhiên khi thấy quan Hữu sư chỉ có một chân. Ông
này đã giải thích cho Công Văn Hiến rằng: “Do
trời đấy, không phải do người đâu. Trời sinh ta bắt ta phải một chân” và dẫn
chứng thêm trường hợp dáng vẻ, hình thể khác thường của “con trĩ trong chằm, cứ mười bước đi một lần mổ, trăm bước đi một lần uống”
để nhấn mạnh rằng tất cả đều là do trời sinh ra như vậy. Nếu dựa vào quan niệm
thẩm mỹ phổ biến của con người thì đó là sự kỳ dị, không cân đối, hài hòa nhưng
ở góc nhìn của Đạo với ý nghĩa là bản
tính tự nhiên thì điều đó chẳng có gì là xấu xí, lạ thường.
Ngay cả ý thức chủ quan, cách đánh giá cái đẹp
của chính con người cũng không đồng nhất vì phụ thuộc vào cảm xúc yêu ghét hoặc
sự thay đổi chuẩn thẩm mỹ theo thời gian. Trong thiên Đức sung phù (NHK), Trang Tử cố tình dẫn khá nhiều trường hợp những
người có hình thể bị cho là xấu xí, dị tướng nhưng lại được nhà vua yêu quý đến
mức cảm thấy chính những người thân tín quanh mình mới là những kẻ kỳ dị (Chi
Ly Vô Thần, Ứng Ánh Đại Anh,..). Những nhân vật này phải chăng đã ít nhiều ảnh
hưởng đến tác giả của Tình sử (Phùng
Mộng Long) khi viết câu chuyện về một chàng trai yêu cô gái chột mắt đến mức cảm
thấy tất cả phụ nữ trên thế gian này đều thừa một mắt[12]
Có thể xem các trường hợp nêu trên như là những
minh chứng cho thấy một số hạn chế nhất định trong cách nhận thức, đánh giá cái
đẹp trên tinh thần đề cao vai trò của con người, căn cứ vào chuẩn thẩm mỹ do
con người áp đặt hay dựa vào cái nhìn chủ quan, thiên kiến, cảm xúc yêu ghét của
con người. Rõ ràng, cách nhìn đó không phản ánh được bản chất, thuộc tính khách
quan của cái đẹp tồn tại trong thế giới tự nhiên. Trong thực tiễn, mỗi sinh thể
đều phải trải qua một quá trình chọn lọc tự nhiên khắc nghiệt để đạt tới sự
hoàn chỉnh của một dạng thức tiêu chuẩn mà chỉ căn cứ vào đó mới có thể xác định
các trường hợp lệch chuẩn, biến dạng có phải là một điểm yếu về mặt thẩm mỹ hay
không. Vì vậy, theo quan niệm Lão- Trang, phải xuất phát từ căn tính tự nhiên
hay nói cách khác là phải căn cứ vào nhu cầu tồn tại tự thân của mỗi sinh thể trong
sự hòa hợp, nối kết với các sinh thể khác trong hệ thống mới có thể đánh giá được
tính thẩm mỹ của vạn vật một cách khách quan.
4. Vì đề cao tính thẩm mỹ của thế giới tự
nhiên nên tư tưởng Lão- Trang có xu hướng lấy vẻ đẹp đó làm chuẩn thẩm mỹ để nhận
thức, thẩm định bản chất, đặc điểm và giá trị của đối tượng thẩm mỹ. Chính nhờ
vào xu hướng này mà một số phạm trù triết học như tự nhiên, hư tĩnh, bình đạm, giản phác,.. vốn được dùng để lý giải
các vấn đề thế giới quan, nhân sinh quan của tư tưởng Lão- Trang lại được vận dụng,
trừu xuất thành các phạm trù mỹ học để tìm hiểu bản chất, đặc điểm của cái đẹp,
xác định các tiêu chí thẩm mỹ và xây dựng những nguyên tắc sáng tạo có sức chi
phối sâu rộng, bền bỉ suốt chiều dài lịch sử nghệ thuật cổ điển Trung Hoa và một
số quốc gia đồng văn.
Một trong những nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật
mà mỹ học Lão- Trang quan tâm đó là phải tôn trọng vẻ đẹp tự nhiên. Công phu đẽo
gọt, hoa mỹ, giả tạo chỉ làm cho con người ngày càng xa rời những phẩm chất tự
nhiên của vạn vật, đánh mất đi những vẻ đẹp thuần khiết, trong khi, đó mới
chính là giá trị đích thực của nghệ thuật. Quan điểm sáng tác này có nguồn gốc
từ nhận thức của Lão Tử về cái hại của nền vật chất văn minh do con người tạo
ra. “Năm màu khiến người tối mắt. Năm giọng
khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi” (chương 12- ĐĐK) cho nên, phải dứt xảo bỏ lợi (Tuyệt xảo khí lợi- chương 19, ĐĐK), trở
về với cái tâm trong sáng của trẻ thơ (Phục
quy ư anh nhi- chương 28, ĐĐK),
tôn trọng bản chất chứ không nên quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài vì “lời nói đáng tin thì không đẹp, lời nói đẹp
thì không đáng tin” (Tín ngôn bất mỹ,
mỹ ngôn bất tín- chương 81, ĐĐK).
Trong tư tưởng Lão- Trang, thuộc tính khách
quan của vẻ đẹp tự nhiên là giản phác,
bình đạm, hư tĩnh. Nghĩa đen của chữ “Phác” (樸)là
gỗ chưa cưa chặt đẽo gọt, chưa làm thành đồ dùng, chưa có sự can thiệp của bàn
tay con người nên vẫn giữ được sự thô ráp, mộc mạc, thuần chất vốn là căn tính,
vẻ đẹp tự nhiên của nó. Muốn bảo vệ căn tính, đề cao vẻ đẹp tự nhiên của vạn vật
thì phải bảo vệ sự trong sáng thuần khiết, chất phác (Kiến tố bão phác- chương 19, ĐĐK),
phải trở về với sự giản dị (Phục quy ư
phác- chương 28, ĐĐK), phải dùng
cái không tên, mộc mạc (Dĩ vô danh chi
phác- chương 37, ĐĐK) bởi bản chất
của Đạo là vô danh và chất phác (Đạo thường vô danh phác- chương 32, ĐĐK), phải biết tôn trọng vẻ đẹp của cái
đôn hậu, phóng khoáng, hỗn độn vì vẻ đẹp đó không có dấu ấn công phu, đẽo gọt,
sắp xếp, trang trí giả tạo của con người (Đôn
hề kỳ nhược phác, khoáng hề kỳ nhược cốc, hỗn hề kỳ nhược trọc- chương 15, ĐĐK
). Hư tĩnh và bình đạm cũng là thuộc tính của Đạo nên
cái “hữu” của lời nói không thể diễn tả được cái “vô”, cái trống rỗng, “hư không, hỗn độn, chẳng có thể nghe được,
chẳng có thể thấy được và chẳng có thể hiểu được” của Đạo (Tri bắc du, NHK). Đạo
không có sức hấp dẫn bởi sự rực rỡ, hoa mỹ mà “lạt lẽo và vô vị, nhìn không đủ thấy, lắng không đủ nghe nhưng dùng mãi
không hết” (chương 35, ĐĐK).
Trong những trường hợp nêu trên, thuộc tính của
Đạo cũng là thuộc tính của vạn vật bởi Đạo thấm nhuần trong vạn vật, chi phối vạn
vật. Mỹ học Lão- Trang xem những thuộc tính đó là các tiêu chuẩn thẩm mỹ để xác
định giá trị của các sản phẩm nghệ thuật do con người tạo tác. Trong sáng tác
thơ ca, tình cảm phải chân thành, ngôn từ phải giản dị, không lạm dụng sự tu sức,
gọt giũa vì giản dị mới là “cảnh giới tận
cùng của văn chương” (Giản vi văn
chương tận cảnh)[13]. Nhờ đó, thơ mới có được vẻ
đẹp trong sáng, thuần hậu của tình cảm, sự hàm súc, tinh tế của lời nói và gợi được
cái vị đạm sau khi đã nồng. Tranh sơn thủy Trung Hoa có phong cách thể hiện riêng,
độc đáo: Chỉ hai màu đen trắng, đạm và nhạt mà gợi được vẻ đẹp sinh động của
phong cảnh; chỉ là những đường nét gân guốc, thậm chí có vẻ thô ráp, mộc mạc
nhưng lại gợi được sự mềm mại, uyển chuyển thiên biến vạn hóa của bố cục không
gian và các hình khối; để ngỏ những khoảng trống hướng vào chỗ hư không, tĩnh mịch
nhưng lại gợi được cái bao la vô hạn của vũ trụ… Những ví dụ nêu trên đều nhằm
làm sáng tỏ nguyên lý đề cao vẻ đẹp tự
nhiên, giản phác, hư tĩnh, bình đạm trong mỹ học Lão- Trang và rõ ràng
nguyên lý đó xuất phát từ tinh thần đề cao những thuộc tính thẩm mỹ của thế giới
tự nhiên.
5.Với chủ trương sống hòa hợp cùng thiên
nhiên, tư tưởng Lão- Trang cũng là một trong những triết thuyết cổ xưa ở phương
Đông đặc biệt quan tâm đến cảm xúc, trải nghiệm thẩm mỹ của con người khi đến với
thế giới tự nhiên trong tâm thế trở về nguồn cội. Những người am hiểu văn
chương cổ điển Trung Hoa hẳn khó mà quên được hình ảnh một vị ẩn sĩ thấp
thoáng, chìm khuất giữa không gian núi non hùng vĩ “Vân thâm bất tri xứ” trong bài thơ Tầm ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo. Nói khó quên bởi vì nó là một hình ảnh
phổ biến trong rất nhiều tác phẩm văn chương, hội họa cổ điển Trung Hoa và các
nước đồng văn. Nó là một biểu tượng cho lớp ẩn sĩ Đạo gia, thoát ly khỏi vòng
thế tục, sống hồn nhiên như cây cỏ, hòa đồng với vạn vật, tự do, phóng khoáng,
không bị ràng buộc bởi danh vị hay các quan hệ đạo đức, lễ nghi phức tạp. Nó gợi
nhắc những nhân vật kỳ lạ được Trang Tử miêu tả trong NHK, chẳng hạn như một
người tên là Vô Danh Nhân chỉ thích “làm
bạn cùng Tạo Vật, cỡi chim khinh hư ra ngoài lục cực, ngao du nơi làng Vô hà hữu”
(Ứng đế vương) hay các vị thần tiên trên
núi Diễu Cô có “da thịt như băng tuyết,
dáng điệu mềm yếu như người con gái chưa chồng, không ăn ngũ cốc, chỉ hớp gió,
uống sương, nương theo hơi mây, cỡi rồng mà bay ngao du ngoài bốn biển” (Tiêu dao du). Những chuyến “ngao du”, những
cuộc ra đi, rời bỏ được nhắc đến trong hành trạng, tác phẩm của Lão Tử, Trang Tử
và các tác phẩm nghệ thuật cổ điển phương Đông in đậm dấu ấn tư tưởng Lão-
Trang thường là những cuộc hành trình ngược chiều với nền văn minh nhân tạo, trở
về với thế giới tự nhiên. Trong cuộc hành trình đó, đôi khi các nhân vật vô
tình lạc bước đến chốn tiên cảnh, Thiên Thai, Đào Nguyên. Tuy nhiên, về bản chất,
đó không phải là những vùng đất mới mẻ, xa lạ mà con người tham vọng chiếm hữu,
khai thác. Chúng chỉ là những “thiên đường xanh” đã mất, những vùng đất kiên
trì bảo lưu dấu tích còn lại của một vùng sinh thái cổ xưa, một khu vườn địa
đàng thơ mộng và lãng mạn trong tâm thức nguyên thủy[14]. Và một khi con người trở
về với ngôi nhà lớn thiên nhiên như trở về với căn tính, nguồn cội của sự sống,
cảm xúc, trải nghiệm thẩm mỹ của anh ta hẳn nhiên sẽ có những khác biệt so với
cảm xúc, trải nghiệm của những kẻ phiêu lưu mạo hiểm, tìm kiếm những vùng đất mới
Có thể thấy rõ sự khác biệt đó trước hết là
trong tranh sơn thủy Trung Hoa. Không có sự biến hóa màu sắc đầy sinh động, hấp
dẫn của thiên nhiên theo từng mùa, không đặc tả các chi tiết bằng nét bút tô vẽ
tỉ mỉ, không lấp đầy màu sắc trong toàn bộ không gian tranh như hội họa phương
Tây, tranh sơn thủy Trung Hoa có công thức thể hiện riêng của nó và những công
thức đó được sử dụng như những quy ước mặc định nên người thưởng thức thường cảm
thấy những bức tranh có nhiều điểm giống nhau đến lạ lùng: vẫn sắc đạm nhạt của
kỹ thuật mực nước pha loãng đạt tới độ trong mềm mại để tả những vùng mây mù hư
ảo; vẫn bố cục tạo cái nhìn toàn cảnh, vừa miêu tả bao quát một vùng không gian
núi non, đại ngàn hùng vĩ, vừa cố tình chừa những khoảng trống để gợi cảm giác
ngoài núi có núi, ngoài trời có trời; vẫn những đường nét thấp thoáng ẩn hiện của
cây cối, dòng thác, một cánh chim chiều, một ngôi chùa cổ ẩn mình trong sương
hay một chiếc thuyền câu nhỏ nhoi giữa không gian bao la rợn ngợp;.. Chính các
ước lệ nghệ thuật đã khiến cho người xem có cảm giác gặp lại những cảnh núi non
trùng điệp, mây phủ mịt mù ấy ở đâu đó trong vô số bức tranh mà mình đã từng
thưởng thức. Tuy nhiên, cảm giác gặp lại những cảnh quen thuộc trong tranh sơn
thủy Trung Hoa còn có một nguyên nhân sâu xa hơn là ở chỗ khi vẽ, “họa sĩ Trung Hoa không nhằm tách mình ra khỏi
thiên nhiên rồi đặt thiên nhiên đối diện để quan sát, mà ngược lại, anh ta dùng
hội họa để làm sống động mối dây liên hệ bản lai của mình với thiên nhiên”[15] (F.Jullien). Nói cách
khác, mỗi lần vẽ một bức tranh sơn thủy là một lần họa sĩ thực hiện một cuộc
hành trình trong tâm thức, cuộc hành trình trở về với cội nguồn thiên nhiên. Với
quyền năng của người nghệ sĩ, anh ta tìm cách tái sinh những hình ảnh trong tâm
thức, thể hiện những gì anh ta cảm thấy hơn là mô tả một cách trung thực những
gì anh ta quan sát bằng thị giác và chỉ bằng cách đó, anh ta mới có thể đánh thức
cái cảm giác trong sáng, thuần khiết, lặng lẽ trong tâm hồn khi được trở về với
thiên nhiên.
Những tác phẩm văn chương chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Lão Trang, đặc biệt là các tác phẩm theo phong cách sơn thủy, điền
viên, cũng thường chỉ gợi ở người thưởng thức cái cảm giác như đang sống lại với
những trải nghiệm xa xưa cùng với tác giả của chúng. Trong những tác phẩm như vậy,
những chữ “thoái” (lui về), “hồi”, “hoàn”, “phục” (trở lại),
“quy” (trở về) xuất hiện phổ biến, thậm
chí ngay từ đầu đề như một cách xác định cảm xúc đặc trưng đã được quy ước cho một
chủ đề quen thuộc. Quy điền viên cư 1
của Đào Uyên Minh (365- 427) miêu tả khá rõ niềm vui sướng vì được “trở về” của
một người vốn lúc trẻ đã không thích chạy theo thói tục (Thiếu vô thích tục vận), không ham cảnh xa hoa, xe ngựa lâu đài mà
bản tính chỉ yêu chốn núi non (Tính bản
ái khâu sơn), trót vướng lưới trần suốt ba mươi năm nên lúc nào cũng mang
tâm trạng của con chim trong lồng nhớ rừng cũ, con cá trong ao cứ tiếc mãi vực
xưa (Ngộ lạc trần võng trung- Nhất khứ
tam thập niên- Ky điểu luyến cựu lâm- Trì ngư tư cố uyên). Hễ kẻ sĩ được từ
quan về ẩn cư là thích chí hạnh phúc mà không thể nào tả được những cảm giác,
trải nghiệm đặc biệt ấy cho người khác. Đó là lời bộc bạch của Đào Hoằng Cảnh
(456-536), tể tướng đời Lương, trong một bài thơ trả lời nhà vua rằng: “Sơn trung hà sở hữu- Lĩnh thượng đa bạch
vân- Chỉ khả tự di duyệt- Bất kham trì tống quân” (Có gì đẹp trong núi-
Trên đỉnh nhiều mây bay- Chỉ có thể tự vui thích- Không thể gửi tặng cho ngài).
Thi tiên Lý Bạch cũng chỉ cười mà không trả lời vì sao mình thích khung cảnh
hoa đào trôi theo dòng nước giữa non xanh cô tịch, chỉ biết “tâm tự nhàn”, hòa
mình vào khung cảnh đất trời riêng có, một nơi không thể nào tìm được ở chốn nhân
gian: (Vấn dư hà ý thê bích san- Tiếu nhi
bất đáp, tâm tự nhàn- Đào hoa lưu thủy diễu nhiên khứ- Biệt hữu thiên địa phi
nhân gian- Sơn trung vấn đáp). Còn Nguyễn Trãi, cây đại thụ của văn chương cổ
điển Việt Nam, thì không chỉ vui với thiên nhiên khi “trở về” Côn Sơn quê cũ mà
còn cảm thấy ấm áp như được sống trong sự quan tâm, yêu mến, bảo bọc của những
người thân thuộc: “Núi láng giềng, chim bầu
bạn- Mây khách khứa nguyệt anh tam” (Thuật
hứng 19). “Khách đến chim mừng, hoa xảy
rụng- Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về” (Thuật hứng 3)…
Tâm thức trở về vốn là một tâm thức phổ biến của
nhân loại. Tuy nhiên, sự trở về được quan tâm nhiều nhất trong những tác phẩm
kinh điển Lão- Trang không phải là cái chết, là sự trở về với cát bụi mà là trở
về với những vẻ đẹp giản phác, thuần khiết của thế giới tự nhiên, trở về với
căn tính, cội nguồn của sự sống. Những cuộc hành trình như vậy mang ý nghĩa của
sự nỗ lực tái lập mối quan hệ bình đẳng, hài hòa giữa con người với muôn loài
trong sự che chở vĩ đại của mẹ thiên nhiên; của nỗi khắc khoải tìm lại những cổ
mẫu, những vẻ đẹp xa xưa, những trải nghiệm, cảm xúc nguyên thủy còn lưu giữ
trong vô thức cộng đồng.
6. Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI này, khi vấn đề nguy cơ khủng hoảng môi trường toàn cầu ngày càng
nóng dần lên ở các diễn đàn chính trị, các công trình, hội thảo thuộc nhiều
lĩnh vực.., đóng góp tích cực của các nhà khoa học phương Tây đương đại thể hiện
rất rõ ràng qua những thành tựu nghiên cứu tiên phong, những tiếng nói cảnh báo
mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh một phương Tây duy lý, chúng ta cũng rất cần ngoái
nhìn một phương Đông minh triết, tìm kiếm, khai quật những giá trị trầm tích
mang dấu ấn của tinh thần sinh thái nhân văn từ các triết thuyết cổ xưa, trong
đó có tư tưởng Lão- Trang. Chỉ xét ở góc nhìn mỹ học sinh thái, triết thuyết
này đã giúp chúng ta có cơ sở củng cố, phát triển ý tưởng về một xu hướng lấy những
vẻ đẹp cần bảo tồn và tôn vinh của thế giới tự nhiên làm chuẩn thẩm mỹ cho những
sản phẩm nhân tạo, để chúng vừa thân thiện với môi trường vừa có ý nghĩa đề cao
vai trò quan trọng của hệ sinh thái mà con người chỉ là một bộ phận hữu cơ
trong đó. Thiết nghĩ, đó mới chính là xu hướng đúng đắn trong bối cảnh hiện nay
như Aldo Leopold, nhà sinh thái học nổi tiếng người Mỹ đã khẳng định: “Một điều là đúng khi nó có xu hướng bảo vệ sự
toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh học. Nó là sai khi có xu hướng
khác”[16].
Nguyễn Kim Châu
Tháng
8. 2017
Hội thảo Phê bình sinh thái- Tiếng nói bản địa- tiếng nói toàn cầu
Viện Văn học- Hà Nội tháng 12- 2017
Chú thích:
[1] Hughes .J.Donald, Ecology in Ancient Civilizations, The University of New Mexico
Press, Abulquerque, 1975, lược thuật từ Yrjo Sepanmaa, Beauty of Environment,
Second Edition, 1993, Environmental Ethics Books, Denton, Texas, trang
131.
[2] Các trích dẫn lấy từ R.W. Hepburn, Contemporary Aesthetics and the neglect of
Nature beauty (Mỹ học đương đại và sự lãng quên vẻ đẹp tự nhiên), trích từ Bernard
Williams and Allan Montefiore, eds. Bristish Analytical Philosophy
London: Routledge and Kegan Paul, 1966. Nguyên văn: “In
our own day, however, writings on aesthetics attend almost exclusively to the
arts and very rarely indeed to natural beauty”, “Aesthetics
is even defined by some mid-century writers as the philosophy of art” (trang 285), “The
characteristics image of contemporary man, as we all know, is that of a stranger, encompassed by a nature, which is
indifferent, unmeaning and absurd” (trang286).
[3] Chữ dùng của R.W. Hepburn trong tựa đề bài viết
đã dẫn.
[4] Ted Loadvine, Ecological Aesthetics (Mỹ học sinh thái), trích từ H.R.Sepp, L.Embree (eds), Handbook of Phenomenological
Aesthetics, Contributions to Phenomenology 59, Springer Science and
Business Media, 2010. Nguyên văn: “Ecological aesthetics today incorporates studies of the
aesthetics of nature, including natural objects and larger wholes such as
ecosystems, gardens and landscape architecture, environmental and earth art,
architecture and urban planning, and the relations between the different modes of aesthetic appreciation
appropriate to these different domains”
[5] Lấy ý từ tựa đề và trích dẫn trong bài viết của
Christopher Manes, Nature and Silence (Tự nhiên và sự im lặng). Trích từ
Cheryll Glotfelty and Harold Fromm, The
ecocriticism Reader- Lanmarks in Literary Ecology, The University of
Georgia Press, Athens and London,1996. Nguyên văn: “Nature is silent in our culture (and in
literate societies generally) in the
sense that the status of being a speaking subject is jealously guarded as an
exclusively human prerogative” (trang 15).
[6] Trong bài viết, tất cả các trích dẫn từ Đạo đức kinh đều dựa vào Lão Tử, Đạo đức kinh, Nguyễn Duy Cần dịch và
bình chú, NXB Trẻ, 2015.
[7] Quách Tượng, Trang Tử chú, trích từ Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc tập 2, Lê Anh Minh dịch, NXB Khoa học
xã hội Hà Nội, 2007, trang 238.
[8] Quách Tượng, Trang Tử chú, trích từ Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc tập 2, sđd,
trang 236,
[9] Các trích dẫn trong bài viết
đều lấy từ Trang Tử, Nam hoa kinh, Nguyễn
Duy Cần dịch và bình chú, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1973, trừ chú thích số
11.
[10] Scala Naturae là một khái niệm có nguồn gốc từ Platon, Aristote. Trong tiếng Latinh, khái niệm này dùng để chỉ nấc
thang của sự tồn tại tương đương với The
ladder of being hay The great chain
of being. Các khái niệm này được đề cập trong Christopher Manes, Nature and
Silence. Theo Christopher Manes, ý tưởng cho rằng “Tự nhiên là một biểu tượng cho vinh dự và sự
thống trị của Chúa” đã tìm thấy cách thể hiện sinh động của nó trong một cấu
trúc “vũ trụ học” được gọi là Scala
Naturae hay The
great chain of being. Xin xem đoạn bàn về khái niệm Scala Naturae trong tài liệu đã dẫn, trang 21.
[11] Trang Tử, Nam
hoa kinh, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1994.
[12] Kỹ nữ chột mắt, quyển VII, loại Tình si, Phùng Mộng
Long, Tình sử tập 2, Nguyễn Thụy Ứng
dịch, NXB Phụ nữ, 2004, trang 5.
[13] Luận văn ngẫu ký của Lưu Đại Khôi (đời Thanh), trích từ Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc,
Mai Xuân Hải dịch, NXB Giáo dục, 1994, trang 178.
[14] Nguyễn Kim Châu, Biểu tượng thiên đường xanh trong văn chương Trung Hoa và Việt Nam thời
trung đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2. 2017, trang 79-86.
[16] Aldo Leopold (1887- 1948), A Sand County Almanac. Chuyển dẫn từ Zsuzsi.I.Kovacs,
Carri.J.Leroy, Dylan.G.Fischer, Sandra Lubarsky and William Burke, How do Aesthetics affect our Ecology? (http://scholarcommons.usf.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1049&context=jea). Nguyên văn: “A thing is right when it tends to preserve the intergrity, stability
and beauty of the biotic community. It is wrong when it tends otherwise”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét