1. Dẫn nhập
Tinh thần “ôn cố
tri tân” thấm nhuần rộng khắp trong môi trường văn chương bác học thời trung đại
đến mức tất cả những vấn đề của đời sống và nghệ thuật đều có xu hướng được thức
nhận, lý giải trên cơ sở những giá trị điển phạm của quá khứ. Yêu cầu lấy xưa để
hiểu nay, lấy vẻ đẹp chuẩn mực trong kinh sách thánh nhân làm khuôn mẫu khiến
cho mọi sáng tạo của người đời sau, thực chất chỉ là sự xoay sở khéo léo trong
phạm vi quan niệm “Thuật nhi bất tác”.
Thủ pháp dụng điển cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Trong “Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp cho biết rằng cách “dùng sự việc cùng loại để nói rõ ý nghĩa, viện dẫn chuyện ngày xưa để chứng minh cho chuyện ngày nay”, đã “trở thành quy phạm thông dụng trong kinh sách” mà nhờ đó, những tác gia thời Đông Hán như Thôi Nhân, Ban Cố, Trương Hành, Sái Ung mới có được những tác phẩm “văn chương kết đầy hoa trái”, “trở thành mẫu mực sáng tác cho đời sau” [1; 426-427]. Từ thời Lục Triều, các sách chép điển cố có tên gọi là “loại thư”, “loại uyển”,.. được biên soạn kỹ càng, công phu để giúp cho người sáng tác có thể tham khảo, dẫn dụng. Càng về sau, qua thực tế sáng tác, kho tàng ngữ liệu điển cố ngày một đầy lên, phong phú, đa dạng hơn và tùy sở học, tài năng của từng người, tùy hoàn cảnh sáng tác cụ thể mà chúng được vận dụng sao cho phù hợp với nhu cầu nghị luận, miêu tả, thuật sự hay bộc lộ tình ý một cách sâu sắc, tinh tế. Vì điển cố là thủ pháp nghệ thuật phổ biến trong văn học trung đại nên việc khảo sát các dạng thức biểu hiện, cách sử dụng, ý nghĩa nghệ thuật của nó đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ khá sớm và bàn bạc thấu đáo. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề cần giải quyết như bản chất của điển cố là gì? xét về đặc tính tu từ, nó có phải là một dạng đặc biệt của ẩn dụ, hoán dụ hay không? Chỉ có thể giải quyết thỏa đáng những câu hỏi này trên cơ sở xác định cơ chế hình thành và giải mã điển cố.
Thủ pháp dụng điển cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Trong “Văn tâm điêu long”, Lưu Hiệp cho biết rằng cách “dùng sự việc cùng loại để nói rõ ý nghĩa, viện dẫn chuyện ngày xưa để chứng minh cho chuyện ngày nay”, đã “trở thành quy phạm thông dụng trong kinh sách” mà nhờ đó, những tác gia thời Đông Hán như Thôi Nhân, Ban Cố, Trương Hành, Sái Ung mới có được những tác phẩm “văn chương kết đầy hoa trái”, “trở thành mẫu mực sáng tác cho đời sau” [1; 426-427]. Từ thời Lục Triều, các sách chép điển cố có tên gọi là “loại thư”, “loại uyển”,.. được biên soạn kỹ càng, công phu để giúp cho người sáng tác có thể tham khảo, dẫn dụng. Càng về sau, qua thực tế sáng tác, kho tàng ngữ liệu điển cố ngày một đầy lên, phong phú, đa dạng hơn và tùy sở học, tài năng của từng người, tùy hoàn cảnh sáng tác cụ thể mà chúng được vận dụng sao cho phù hợp với nhu cầu nghị luận, miêu tả, thuật sự hay bộc lộ tình ý một cách sâu sắc, tinh tế. Vì điển cố là thủ pháp nghệ thuật phổ biến trong văn học trung đại nên việc khảo sát các dạng thức biểu hiện, cách sử dụng, ý nghĩa nghệ thuật của nó đã được các nhà nghiên cứu quan tâm từ khá sớm và bàn bạc thấu đáo. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề cần giải quyết như bản chất của điển cố là gì? xét về đặc tính tu từ, nó có phải là một dạng đặc biệt của ẩn dụ, hoán dụ hay không? Chỉ có thể giải quyết thỏa đáng những câu hỏi này trên cơ sở xác định cơ chế hình thành và giải mã điển cố.
2. Cơ chế hình thành điển
cố
Thao tác dụng điển
phổ biến là dùng một yếu tố ngôn từ (có thể là tên đất, tên người, hay chỉ một
sự vật, sự việc, hiện tượng.. ) nhưng lại có khả năng gợi nhắc trọn vẹn một câu
chuyện, một câu văn/ thơ đặc sắc hoặc một hình ảnh độc đáo được lấy từ kho tàng
sách vở quá khứ có giá trị mẫu mực và phổ quát để đưa vào ngôn cảnh thích hợp. Trong
trường hợp này, điển cố sẽ giúp cho lời văn nghệ thuật vừa có được vẻ đẹp tu sức,
uyên bác, cao nhã vừa chứa đựng được một lượng hàm nghĩa phong phú, có khả năng
diễn đạt ý tưởng một cách chính xác, hàm súc.
Như vậy, xét về cơ chế hình thành, điển cố là kết
quả của một liên tưởng đột ngột xuất hiện trong quá trình sáng tác khi người viết
phát hiện sự tương đồng giữa sự việc, nhân vật, hình ảnh mà mình đang nghị luận,
thuật sự, miêu tả,... với một sự việc, một nhân vật, hình ảnh khác trong một
văn bản nguồn thuộc cái kho tri thức kinh sử, văn chương mà anh ta đã tích lũy.
Ngay sau đó, anh ta ký hiệu hóa nó thành một dạng thức ngôn từ giản ước tối đa
nhưng lại có khả năng cô đúc, nén chứa toàn bộ ý nghĩa của câu chuyện, câu văn/
thơ trong văn bản nguồn, rồi đưa vào lời văn nghệ thuật của mình. Khi xuất hiện
ở văn bản đích, yếu tố ngôn từ đó sẽ đảm nhiệm vai trò kích hoạt sự kết nối, dịch
chuyển toàn bộ ý nghĩa của văn bản nguồn sang ngôn cảnh của văn bản đích mà nhờ
đó, người đọc mới có thể hiểu được ý nghĩa của câu văn/ thơ trong văn bản đích.
Sơ đồ sau đây sẽ cụ thể hóa cơ chế hình thành, sử dụng điển cố trong quá trình
sáng tác của nhà văn và đương nhiên, theo con đường ngược lại, sơ đồ cũng biểu
thị cơ chế tiếp nhận một lời văn nghệ thuật có sử dụng điển cố:
Trong sơ đồ
trên, các vạch liền dùng để chỉ con đường hình thành và sử dụng một điển cố,
còn các vạch đứt để chỉ quá trình ngược lại, đó là con đường mà người tiếp nhận
phải đi qua để hiểu một điển cố và nhờ đó, hiểu được ý nghĩa của câu văn/ thơ
trong văn bản đích. Từ sơ đồ trên, có thể thấy rõ quá trình nối kết, tương tác
liên văn bản đã được thực hiện nhờ một yếu tố ngôn từ được trích xuất hoặc được
cô đúc từ văn bản nguồn đóng vai trò chuyển toàn bộ thông tin từ văn bản nguồn
sang văn bản đích, để từ đó, tạo lập đường dây liên tưởng giữa quá khứ và hiện
tại, lấy ý nghĩa của văn bản nguồn để hiểu ý nghĩa trong ngôn cảnh thuộc văn bản
đích. Chẳng hạn, ta có thể xem xét một trường hợp cụ thể dưới đây:
“Phú
quý treo sương ngọn cỏ
Công
danh gửi kiến cành hòe”(Tự thán 3- Nguyễn Trãi)
Trong lúc viết
hai câu thơ này, hẳn nhiên, Nguyễn Trãi đã liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu
Phần mơ giấc công danh dưới gốc hòe trong sách Dị văn lục. Toàn bộ câu chuyện và ý nghĩa của nó ở văn bản nguồn sẽ
được tác giả cô đúc lại trong cụm từ kiến
cành hòe rồi đặt vào câu thơ mà mình đang sáng tác. Lúc này, kiến cành hòe đã trở thành một điển cố
mà nhờ nó, ý nghĩa của câu chuyện trong văn bản nguồn (nỗi niềm của những người
từng nếm trải sự hư ảo của công danh) sẽ được dịch chuyển toàn bộ sang ngôn cảnh
trong văn bản đích. Trên cơ sở quan hệ đó, đương nhiên, ai cũng hiểu rằng Nguyễn
Trãi đang than thở cho kiếp quan trường ngắn ngủi, bạc bẽo, phù du mà mình từng
nếm trải.
Chính vì sử dụng
một yếu tố ngôn từ được cô đúc hoặc trích xuất từ một câu chuyện hay một câu
văn/ thơ trong văn bản nguồn nên thủ pháp dụng điển giúp cho cho lời văn nghệ
thuật đạt tới sự hàm súc cao độ đến mức gần như là một cách nói tắt ngang, một
trò chơi chữ nghĩa đầy uyên bác, thú vị và thậm chí, đôi khi còn mang tính chất
bí hiểm nếu người viết dùng điển lạ hay giấu điển khéo léo, tinh tế đến mức khó
nhận ra. Muốn hiểu được thứ chữ nghĩa “đánh đố” đó, chỉ có một cách duy nhất là
người đọc phải giải mã được điểm mấu chốt, đó là ý nghĩa của điển cố được sử dụng
trong ngôn cảnh. Cho nên, vấn đề không chỉ dừng lại ở chỗ khảo sát cơ chế hình
thành và sử dụng điển cố mà còn cần khảo sát cả cơ chế giải mã điển cố.
3. Cơ chế giải mã điển
cố
Về bản chất, mỗi
điển cố đều là một yếu tố ngôn từ mang tính biểu trưng, bởi trong nó luôn có một
lớp nghĩa hiển hiện và một hay một vài lớp nghĩa hàm ẩn phát sinh nhờ quan hệ
liên tưởng với một câu chuyện trong nguồn dẫn liệu. Mặt khác, nghĩa hàm ẩn của
một điển cố luôn gắn bó một cách chặt chẽ với nghĩa hiển hiện và chỉ được hiểu
thông qua nghĩa hiển hiện. Có thể xem xét một trường hợp cụ thể sau:
“Rằng nghe nổi tiếng cầm đài
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”
(Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Xuất hiện trong
câu thơ với tư cách là một điển cố lấy từ câu chuyện cảm động về tình bạn được
ghi trong sách Liệt tử và Lã Thị xuân thu, từ “Chung Kỳ” trước hết
mang lớp nghĩa hiển hiện, cụ thể để chỉ một nhân vật tên là Chung Tử Kỳ, người
duy nhất có thể cảm thụ được khúc đàn Cao sơn lưu thủy của Bá Nha. Gắn kết và
xuất phát từ nghĩa hiển hiện nêu trên, “Chung Kỳ” mang thêm lớp nghĩa hàm ẩn để
chỉ một người bạn tri âm, người không chỉ có năng lực thưởng thức tác phẩm nghệ
thuật một cách tinh tế mà qua đó, còn có thể
hiểu được tâm sự của người sáng tạo nghệ thuật đã giãi bày kín đáo trong
tác phẩm. Lớp nghĩa hàm ẩn này xuất phát từ nội dung của câu chuyện, phái sinh
từ nghĩa hiển hiện và gắn bó chặt chẽ với nghĩa hiển hiện của điển cố. Mặt khác,
lớp nghĩa hàm ẩn này lại được sử dụng phổ biến trong nhiều tác phẩm của người đời
sau với cùng một cách hiểu mang tính quy ước nên cứ mỗi lần nhà văn nhắc đến điển
cố “Chung Kỳ”, “Tử Kỳ”, thì tất cả thành viên trong cộng đồng văn học thời
trung đại và bất kỳ ai tích lũy được vốn tri thức kinh sách, văn chương trung đại
đều hiểu rằng tác giả đang nói đến người tri âm trong lĩnh vực tiếp nhận nghệ
thuật. Tương tự, dùng điển Nghiêu Thuấn là ngầm nói đến những vị vua anh minh
hay những triều đại thịnh trị (“Vua
Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn- Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”- Tự thán 4- Nguyễn Trãi), dùng điển Tây
Thi, Hằng Nga là nói đến những giai nhân tuyệt sắc (“Hương trời đắm nguyệt say hoa- Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình”-
Cung oán ngâm- Nguyễn Gia Thiều); dùng
điển liễu Chương Đài[i]
hàm nghĩa tình yêu bị chia cách vĩnh viễn (“Khi
về hỏi liễu Chương Đài- Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay”- Truyện Kiều- Nguyễn Du); dùng điển lá thắm,
chỉ hồng là nói đến duyên phận trời định (“Nàng
rằng lá thắm chỉ hồng- Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”- Truyện Kiều- Nguyễn Du),…
Trong trường hợp
điển cố được hình thành từ việc vận dụng một yếu tố ngôn từ nhưng có khả năng gợi
nhắc một câu văn/thơ, một hình ảnh đặc sắc, một tứ thơ độc đáo trong tác phẩm
kinh sách, văn chương mẫu mực của người xưa, nghĩa hiển hiện và nghĩa hàm ẩn của
điển vẫn có mối quan hệ rất chặt chẽ và mang tính cố định. Chẳng hạn, ta có thể
xem xét một trường hợp cụ thể sau:
“Danh thơm một áng mây nổi
Bạn cũ ba thu lá tàn”(Thuật hứng 18- Nguyễn
Trãi)
“Áng mây nổi”
trong câu thơ là một điển cố. Trước hết, nó mang nét nghĩa cụ thể dùng để chỉ một
hiện tượng phổ biến trong tự nhiên: một áng mây đột ngột xuất hiện rồi cũng đột
ngột mất đi trên bầu trời, có đó rồi mất đó, âu cũng là chuyện thường tình. Tuy
nhiên, ngay sau khi tri giác về lớp nghĩa hiển hiện đó, người đọc thời trung đại
lập tức liên tưởng đến từ “phù vân” mà Khổng tử từng nhắc đến trong Luận ngữ: “Bất nghĩa nhi phú thả quý, ư ngã như phù vân”[ii]
(Bất nghĩa mà giàu sang thì với ta chỉ như mây nổi) và hẳn nhiên, chính ngôn cảnh
cùng ý nghĩa của hình ảnh trong văn bản nguồn đã quy định lớp nghĩa hàm ẩn cố định
của điển “mây nổi” hay “phù vân” trong bất cứ ngôn cảnh nào có điển này xuất hiện
là nhằm để chỉ sự mong manh, phù phiếm của phú quý, lợi danh, các giá trị vật
chất ảo trong cuộc đời. Cho nên, hễ nhắc đến
“mây nổi”, “phù vân” là người đọc nghĩ đến công danh phù phiếm. Tương tự, nhắc
đến bể dâu (tang thương) hàm ý nói đến sự thay đổi đáng sợ của cuộc đời[iii]
(“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt- Nước
còn cau mặt với tang thương”- Thăng
Long hoài cổ- Bà Huyện Thanh Quan, hay “Khóc
vì nỗi thiết tha sự thế- Ai bày trò bãi bể nương dâu”- Cung oán ngâm- Nguyễn Gia Thiều), bóng câu qua cửa sổ[iv]
để chỉ đời người trôi nhanh (“Tuổi đã ngoại
tám mươi già- Thoăn thoắt xem bằng bóng ngựa qua”- Thơ Nôm 14- Nguyễn Bỉnh Khiêm), còn hoa đào năm ngoái[v]
thì hẳn nhiên là nói đến không gian đầy hoài niệm buồn thương, nơi cảnh cũ vẫn
còn mà người xưa đã vắng (“Trước sau nào
thấy bóng người- Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”- Truyện Kiều- Nguyễn Du)….
Vì điển luôn có
lớp nghĩa hiển hiện và nghĩa hàm ẩn được hình thành trên cơ sở quan hệ liên tưởng
tương đồng hay tương cận nên có nhà nghiên cứu cho rằng điển cố là một dạng đặc
biệt của ẩn dụ và hoán dụ[vi].
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng giữa điển cố với ẩn dụ và hoán dụ có một điểm
khác biệt rất cơ bản, đó là nét nghĩa hàm ẩn của ẩn dụ, hoán dụ chỉ tồn tại lâm
thời trong một ngôn cảnh cụ thể. Chúng thể hiện rõ năng lực sáng tạo của mỗi
người viết khi cấp thêm cho một yếu tố ngôn từ những nét nghĩa mới trong những
ngôn cảnh khác biệt. Trong khi đó, một điển cố có thể xuất hiện với những hình
thức ngôn từ biểu đạt khác nhau, được sử dụng ở nhiều văn bản của những tác giả
khác nhau, trong những thời đại khác nhau nhưng lớp nghĩa hàm ẩn của điển cố
thì luôn mang tính chất ổn định trong những ngôn cảnh tương đồng.
Sở dĩ nghĩa hàm ẩn
của điển cố luôn ổn định, bất biến một mặt là do nó luôn bị quy định bởi ý
nghĩa của câu chuyện, câu văn/ thơ,.. trong một văn bản nguồn; còn mặt khác là
do những quy ước mặc định mà cộng đồng văn học trung đại luôn tuân thủ, chấp nhận
trong sáng tác và thưởng thức. Chính ý nghĩa của văn bản nguồn và tâm thức sáng
tác trọng cổ, tập cổ, luôn muốn sử dụng lại các khuôn mẫu đã khiến cho điển cố
luôn lưu giữ lớp nghĩa hàm ẩn mang tính quy ước, cố định trong các văn bản khác
nhau nhưng có nội dung miêu tả, thuật sự, nghị luận,… tương đồng. Chẳng hạn,
cùng tả tâm trạng nhớ quê, trong bài Bảo
kính cảnh giới 28, Nguyễn Trãi viết: “Nghìn
dặm xem mây nhớ quê- Chẳng chờ cởi ấn, gượng xin về”, còn Nguyễn Du thì dùng
điển này để tả tâm trạng của Kiều: “Bốn
phương mây trắng một màu- Trông vời cố quốc biết đâu là nhà”. Hình thức
ngôn từ được vận dụng để biểu đạt điển cố có thể thô hoặc tinh, có thể thay đổi,
biến hóa đa dạng là do tài năng của người nghệ sĩ nhưng nhất định, muốn hiểu
nghĩa hàm ẩn của điển “mây trắng”/ “xem mây” thì tất cả đều phải hồi cố về văn
bản nguồn. Đó là câu chuyện Địch Nhân Kiệt (Đường thư) khi nhậm chức nơi xa,
nhìn về phương trời có mây trắng mà bồi hồi nhớ quê, thương cha mẹ. Trong trường
hợp này, sự sáng tạo đối với người nghệ sĩ thời trung đại không phải là tìm những
nét nghĩa mới cho một yếu tố ngôn từ quen thuộc mà chỉ dừng lại ở chỗ sử dụng
những hình thức ngôn từ khác nhau để gợi nhắc ý nghĩa hàm ẩn cố định trong một
văn bản nguồn quen thuộc được cổ nhân xem là “lệ sự” (những việc tốt đẹp).
Vì nghĩa hiển hiện và nghĩa hàm ẩn của điển cố đều
xuất phát từ câu chuyện, câu văn/ thơ trong văn bản nguồn, thậm chí, cả hình thức
ngôn từ của điển cố cũng được cô đúc hoặc trích xuất từ văn bản nguồn, nên muốn
giải mã điển cố, người đọc phải lấy văn bản nguồn làm hệ quy chiếu. Trong khi
đó, ẩn dụ, hoán dụ không hình thành từ một văn bản nguồn mà từ sự so sánh, đối
chiếu giữa hai đối tượng dựa trên quan hệ liên tưởng tương đồng hoặc tương cận,
nên muốn giải mã chúng, người đọc phải dựa trên hệ quy chiếu là tâm thức văn
hóa cộng đồng. Sự khác biệt giữa cơ chế giải mã của ẩn dụ, hoán dụ với điển cố
được hình dung qua các sơ đồ sau:
Trong hình 2,
con đường từ (A) đến (y) được biểu thị bằng vạch đứt để nhấn mạnh tính chất lâm
thời của nghĩa hàm ẩn trong ẩn dụ, hoán dụ. Còn trong hình 3, con đường từ (A)
đến (y) được biểu thị bằng vạch liền để biểu thị tính cố định của lớp nghĩa hàm
ẩn trong điển cố do được sử dụng lặp lại phổ biến trong nhiều văn bản khác
nhau. Chính sự bất biến của lớp nghĩa này mà người đọc thời trung đại, như một
phản xạ được hình thành từ quá trình thưởng thức rất nhiều trường hợp tương tự,
không cần thực hiện con đường giải mã tuần tự (A)- (x)- (y) mà có thể bỏ qua
(x) để từ (A) mà hiểu ngay (y). Nói cách khác, (A) đã được cả cộng đồng trung đại
quy ước cho một nghĩa biểu trưng là (y) nên trong thực tiễn tiếp nhận, người đọc
gần như không cần (x) mà vẫn hiểu nghĩa hàm ẩn của (A) trong bất kỳ ngôn cảnh nào có (A) xuất hiện.
Cũng cần nhấn mạnh
rằng, để có thể hiểu nghĩa hàm ẩn của điển cố mà không cần dựa vào nghĩa hiển
hiện, một yêu cầu quan trọng là điển phải được sử dụng phổ biến đến mức gần như
là một biểu tượng. Khi cái được biểu đạt của một biểu tượng đã được quy ước thì
ý nghĩa của những chi tiết kiểu như con chim bồ câu báo nạn đại hồng thủy đã chấm
dứt (theo Kinh Thánh) hay vòng nguyệt quế được xem là phần thưởng dành cho người
chiến thắng trong thời kỳ Hi Lạp cổ đại đã bị bỏ qua. Chính điều này dẫn đến một
thực tế là trong giao tiếp, người ta cứ hiểu
theo nghĩa đã mặc định mà gần như chẳng cần quan tâm đến lý do vì sao chim bồ
câu lại là biểu tượng của hòa bình hay vòng nguyệt quế là biểu tượng của chiến
thắng. Điển cố, trong một cấu trúc tương tự, cũng đã định hình quan hệ cái biểu
đạt và cái được biểu đạt có tính chất cố định, quen thuộc, khuôn mẫu đến mức có
thể xem Nghiêu Thuấn là biểu tượng cho những vị vua anh minh, Bá Nha- Tử Kỳ là
biểu tượng cho tình tri âm tri kỷ, phù vân là biểu tượng cho danh lợi phù phiếm,
bể dâu/ tang thương là biểu tượng cho sự biến đổi nhanh chóng đáng sợ của cuộc
đời,…
Tuy nhiên, đối với
trường hợp điển ít dùng hoặc điển lạ, người đọc vẫn phải đi theo con đường giải
mã quen thuộc, nghĩa là phải xác định được văn bản nguồn. Đó là lý do giải
thích vì sao công việc sưu tầm, khảo cứu, chú giải những tác phẩm văn học trung
đại luôn gặp nhiều trở ngại do không tìm được nguồn dẫn liệu hoặc xuất hiện
tình trạng một điển nhưng có nhiều cách chú giải khác nhau do dựa vào nguồn dẫn
liệu khác nhau. Chẳng hạn, đối với điển “khí thôn ngưu” trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, có nhà
nghiên cứu chú giải là “nuốt trôi trâu” và chỉ rõ nguồn dẫn liệu là một câu thơ
của Đỗ Phủ (Tiểu nhi ngũ tuế khí thôn
ngưu), trong khi có nhà nghiên cứu lại chú giải là “át sao Ngưu” vì cho rằng
cách hiểu “khí thế át sao Ngưu” đã có từ trước Đỗ Phủ rất lâu [3; 563].
4. Kết luận
Thông qua việc
mô hình hóa, so sánh cơ chế hình thành và chuyển nghĩa của điển cố với ẩn dụ và
hoán dụ, có thể thấy rằng điển cố có những điểm khác biệt đáng chú ý về đặc
tính tu từ. Thứ nhất, điển cố cũng có nghĩa hiển hiện và nghĩa hàm ẩn như ẩn dụ,
hoán dụ, nhưng nghĩa hàm ẩn của ẩn dụ, hoán dụ chỉ có tính chất lâm thời trong
khi nghĩa hàm ẩn của điển cố luôn cố định, do được sử dụng lặp lại phổ quát đến
mức trở thành một lớp nghĩa quy ước được cả cộng đồng văn chương thời trung đại
mặc nhiên chấp nhận hiểu và sử dụng. Thứ hai, nghĩa hiển hiện và nghĩa hàm ẩn của
ẩn dụ, hoán dụ được quy định bởi tâm thức văn hóa của cộng đồng, trong khi
nghĩa hiển hiện và hàm ẩn của điển cố lại được quy định bởi một văn bản nguồn
có tính chất mẫu mực trong hệ thống kinh sử, văn chương bác học. Thứ ba, điển cố
vừa có một hình thức biểu đạt cô đọng, đậm chất uyên bác vừa có sức nén chứa lượng
hàm nghĩa phong phú hơn nhiều lần so với nghĩa hàm ẩn trong ẩn dụ, hoán dụ. Chính
vì những khác biệt nêu trên, có thể khẳng định rằng, sử dụng điển cố không chỉ
đơn giản là nhằm làm gia tăng sắc thái tạo hình, biểu cảm cho lời văn nghệ thuật
như ẩn dụ, hoán dụ mà quan trọng hơn là ở chỗ thể hiện được tính chất hàm súc,
cao nhã, quy phạm của văn chương bác học thời trung đại./.
Nguyễn Kim Châu
Đã đăng Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống
số 8/2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Trần Thanh Đạm và Phạm Thị Hảo (dịch), NXB Văn học,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội. trang 426- 427
2.
Trần Lê Sáng (Chủ biên) (2002)- Ngữ văn Hán Nôm, tập 1 (phần Tứ thư), NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, trang 331
3. Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý- Trần tập II quyển thượng, NXB KHXH, Hà Nội, 1989.
Chú thích
[i] Lấy từ chuyện về mối tình Hàn Hoành và Liễu thị trong “Tình sử”
[ii] Khổng Tử, Luận ngữ, thiên
Thuật nhi, [2; 331]
[iii] Trong chuyện thần tiên thời Đông Hán, tiên nữ Ma Cô nói với Phương
Bình rằng: “Từ khi hầu chuyện cùng ông, tôi đã thấy bể đông ba lần biến thành
ruộng dâu”
[iv] Lấy từ cụm từ “bạch câu quá khích”trong Nam hoa kinh- Trang Tử
[v] Lấy từ câu thơ “Đào hoa y cựu
tiếu đông phong” (Đề đô thành Nam
Trang- Thôi Hộ)
[vi] Xin xem bài viết “Đặc tính
tu từ của điển cố”- Đoàn Ánh Loan- Trang web của Khoa Văn học và ngôn ngữ- Trường
Đại học KHXH&NV- TPHCM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét