Bài đăng nổi bật

DẤU ẤN CỦA TINH THẦN MỸ HỌC SINH THÁI TRONG TRIẾT THUYẾT LÃO TRANG

1. Khi bàn về “ Sinh thái học trong những nền văn minh cổ ”, Johnson Donald Hughes đã trình bày ý tưởng về một sự lựa chọn định mệnh ở thờ...

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2020

HÌNH TƯỢNG QUAN CÔNG QUA CÂU ĐỐI TẠI CÁC CHÙA MIẾU NGƯỜI HOA Ở AN GIANG

 

Tượng Quan Công ở Quan Thánh miếu- TP Long Xuyên- An Giang 
1.Ở Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang là một trong những nơi ghi nhận khá sớm các đợt di dân người Hoa đầu tiên có nguồn gốc từ hậu duệ nhóm di dân của Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho và nhóm di dân của Mạc Cửu ở Hà Tiên vào thế kỷ XVII- XVIII. Đầu thế kỷ XIX, An Giang còn ghi nhận thêm một đợt di dân người Hoa rất lớn trong chiến lược mở mang và bảo vệ Châu Đốc tân cương, vùng đất được triều Nguyễn xem là biên giới phương Nam của “hoàng triều cương thổ”. Quốc triều chính biên toát yếu cho biết: Năm 1817, Gia Long cho rằng “xứ Châu Đốc đất tốt mà người ít” nên “cử người đến cai quản, chiêu tập người Việt, người Thổ, người Tàu vào cho đông, hễ có biết nghề trồng cây, nuôi súc vật, buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy nghề mà làm, người nào thiếu vốn thời nhà nước cho vay[1]. Tháng 8.1818, nước lụt làm lở đồn Châu Đốc, Gia Long lệnh cho tu bổ, phái binh đóng giữ, tiếp tục sai quan trấn Vĩnh Thanh “chiêu tập người Tàu, người Chân Lạp cho lập phố chợ, khai khẩn ruộng hoang ở phía sau đồn, cấm người Việt không được nhiễu hại[2]. Ngay từ buổi đầu khai phá, với tố chất nhẫn nại, năng động, dễ thích nghi, người Hoa nhanh chóng gắn bó, hòa hợp với các dân tộc Khmer, Chăm và lưu dân người Việt trong một cơ chế cộng cư mang tính chất mở đặc thù. Với kinh nghiệm buôn bán, tay nghề thủ công khéo léo và triết lý luôn đặt chữ “tín” lên hàng đầu trong mọi hoạt động, cộng đồng người Hoa trở thành một trong những nguồn lực quan trọng góp phần phát triển thương nghiệp, dịch vụ; luôn bám sát lưu dân người Việt trong quá trình khẩn hoang, lập làng, lập chợ; góp phần thu mua, trao đổi nông sản và cung cấp nguồn vốn cho hoạt động nông nghiệp, kích thích phát triển nền kinh tế hàng hoá địa phương. Với tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng cao, các nhóm di dân người Hoa có nguồn gốc từ Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam… tập hợp thành các bang hội để gìn giữ tập tục, bản sắc văn hóa, giúp đỡ đồng hương gặp khó khăn trong buổi đầu lập nghiệp, cải thiện đời sống, phát triển kinh doanh. Sự ra đời của các hội quán, chùa, miếu người Hoa ở Nam bộ nói chung và An Giang nói riêng xuất phát từ một tập quán, nhu cầu bức thiết mà Đào Trinh Nhất trong Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ đã đúc kết rằng: “Trong Nam kỳ, người Tàu ở quá nên ta trông thấy cái đặc chất của họ rõ ràng lắm: có phố khách, có làng khách, có đình chùa của khách, nghĩa là họ đi đâu thì đem cái văn hóa của mình đi đấy, dầu cho bị phong trào xô đẩy nhưng mà bản sắc vẫn còn”[3].

Mấy trăm năm qua, sự tồn tại của các hội quán, chùa, miếu người Hoa không chỉ in đậm một dấu ấn riêng, độc đáo trong bức tranh đa sắc của vùng văn hóa Nam Bộ mà còn đóng góp một nguồn dữ liệu có giá trị nhất định trong việc phác thảo diện mạo của nền văn chương Hán học non trẻ trên vùng đất mới, đó là hệ thống câu đối tại các di tích. Vẻ đẹp chân phương hay bay bổng, phóng khoáng của những con chữ tượng hình được chạm khắc, sơn son, thếp vàng, sắp xếp cân đối, hài hòa trên cột đá, xi măng hoặc gỗ quý tạo nên một phần hồn cốt mà thiếu chúng, các di tích tín ngưỡng người Hoa chắc chắn sẽ mất đi ít nhiều không khí tâm linh, cổ kính hay nét phong tục tập quán đặc sắc của cư dân. Qua những cụm từ, câu văn mang tính chất đối ngẫu, ngắn gọn, súc tích, giàu hình ảnh, âm điệu, chuyển tải nội dung gửi gắm niềm kính ngưỡng, ước vọng, ngợi ca những hình tượng thần thiêng âm phù cho con người trong quá trình di dân, định cư và phát triển, chúng ta cũng có thể tái hiện phần nào những sự kiện, biến động lịch sử; ít nhiều phục dựng được chân dung, tính cách, đời sống tâm hồn của các thế hệ Hoa kiều, Khách trú thời mở cõi. Một trong những hình tượng phổ biến được cư dân tôn sùng, thành kính cũng như được miêu tả khá sinh động trong hệ thống câu đối tại các chùa, miếu người Hoa ở Nam bộ nói chung và ở An Giang nói riêng chính là hình tượng Quan Công.

2. Bằng nhiều con đường khác nhau và do những nhu cầu thực tiễn khác nhau, Quan Vũ- sinh năm 162 mất năm 219[4], tự là Vân Trường, các dân tộc Hoa, Việt thường gọi là Quan Công-  từ trong chính sử đã được dân gian hóa, tiểu thuyết hóa, huyền thoại hóa rồi cuối cùng là được thần thiêng hóa ngay trên đất nước sản sinh ra nhân vật này và trong quá trình hội nhập của văn hóa người Hoa vào vùng văn hóa Nam bộ cách đây mấy thế kỷ. Các nhà viết sử có cái nhìn khách quan như Tư Mã Quang không đề cao Quan Công bởi, bên cạnh những chiến công lẫy lừng được ghi nhận trong chính sử như giết Nhan Lương, bắt sống Vu Cấm và Bàng Đức.., ông cũng có những lần thất bại vì kiêu binh, chủ quan như: bại trận khi đối đầu với Lý Thông; bị Nhạc Tiến và Văn Sính đánh lui ở gần Hạ Khẩu; lại bị Văn Sính dùng thủy quân truy đuổi ở Tầm Khẩu, cướp kho lương và đốt sạch chiến thuyền… Theo chính sử, Quan Công cũng là người có trách nhiệm không nhỏ trong việc để mất Kinh Châu dẫn đến cơ đồ nước Thục tiêu tan.

Tuy nhiên, khi bước vào chuyện kể của thuyết thư dân gian và sau đó, được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, các nhược điểm của nhân vật từ góc nhìn chính sử bị che khuất, lược bỏ hoặc được khéo léo biện minh, các ưu điểm, chiến tích được tô đậm, thậm chí phóng đại qua lời kể dân gian bị chi phối bởi tâm lý cực đoan và ngòi bút sáng tạo đầy chủ ý của nhà văn[5]. Theo đó, người bình dân đặc biệt xúc động, phấn khích, ngưỡng mộ với những trường đoạn được hư cấu, không có trong chính sử như: Quan Vân Trường qua năm ải chém sáu tướng; đưa Cam, My phu nhân dặm trường tìm anh, nửa đêm chong đèn đọc sách, giữ cửa cho hai chị để bảo toàn lễ tiết; chặt đầu Sái Dương chỉ trong một hồi trống trận, sẵn sàng bỏ qua quân lệnh mà tha chết cho Tào Tháo trong đại chiến Xích Bích… Trong tâm thức dân gian, Quan Công trở thành hiện thân của người anh hùng đởm lược, khí khái can trường, trung, hiếu, tín, nghĩa, tài đức vẹn toàn. Ông cũng là biểu tượng cho những phẩm chất cao quý, vẻ đẹp nhân cách lý tưởng đáng tôn vinh như sự chính trực, công minh, đức hi sinh, lòng chung thủy, khoan dung,..

Các huyền thoại được sáng tạo trên cơ sở tầm phổ quát của một hình tượng mang tính chất lý tưởng, cuối cùng được thần thiêng hóa để đáp ứng cho những nhu cầu phong phú trong đời sống vật chất và tâm linh. Tương truyền, sau khi mất, ông được lập miếu thờ. Đến đời Tống, ông được phong tước công rồi tước vương. Đời Minh, ông được phong hiệu Quan Thánh Đế Quân. Nho giáo xem Quan Công là một vị thánh, tôn xưng ông là một trong Ngũ Văn Xương. Ông cũng được mệnh danh là Sơn Tây phu tử. Dân gian Trung Quốc có câu nói: Ở Sơn Đông có một người làm kinh Xuân Thu (chỉ Khổng Tử). Ở Sơn Tây có một người xem kinh Xuân Thu (chỉ Quan Công). Đó là do lời truyền, lúc sống, Quan Công rất thích đọc kinh Xuân Thu. Đạo giáo xem Quan Công là một trong tứ đại Nguyên soái của Thượng đế. Phật giáo xem Quan Công là vị thần Già Lam, hộ pháp giữ chùa. Trong phong trào Thiên Địa hội thời Càn Long, Quan Công được người dân tôn xưng là vị thần đứng đầu trong Ngũ Công Vương Phật.

Trong đời sống tín ngưỡng của người Hoa ở Nam bộ nói chung và An Giang nói riêng, Quan Công là vị thần quan trọng được thờ phượng tại các chùa miếu và gia đình. Cư dân xem ông là biểu tượng của tinh thần trung liệt, tín nghĩa, một chỗ dựa tâm linh được kính tín tuyệt đối, có thể tạo nên sự kết nối thiêng liêng trong cộng đồng. Trong mỗi gia đình người Hoa, ông còn được thờ phụng với tư cách là một vị võ tài thần phù hộ việc kinh doanh hay một vị thần bản mệnh phù hộ cho người đàn ông lớn tuổi; lại có thể xua đuổi tà ma, ám khí từ bên ngoài xâm nhập vào nhà khi ông được thờ trong hình tượng cầm Thanh Long đao, mũi đao hướng ra ngoài.

3. An Giang hiện còn một số di tích chùa, miếu thờ Quan Công như: Bắc Đế miếu, Quan Đế miếu, Quan Thánh miếu, chùa Quan Đế (Long Xuyên), Quan Đế miếu, Quan Thánh miếu (Châu Phú) Quan Đế cổ miếu, Quan Đế miếu (Tân Châu), Quan Thánh miếu (Chợ Mới), Quan Đế Thánh miếu (Phú Tân), miếu Quan Thánh (Châu Đốc). Trong số đó, các miếu thờ Quan Công ở Long Xuyên và Châu Đốc còn lưu giữ nhiều câu đối có giá trị văn chương và giá trị nghệ thuật điêu khắc, thư pháp đáng chú ý[6]. Qua các văn bản này, Quan Công được khắc họa khá sinh động vừa trong hình tượng của một vị thần tối thượng có sức mạnh thiêng liêng, hiển hách âm phù cho cư dân, vửa trong hình tượng của một người anh hùng mang vẻ đẹp và những phẩm chất lý tưởng đáng ngưỡng mộ, noi gương.

Trong các chùa, miếu thờ Quan Công ở An Giang nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, chân dung của ông được miêu tả theo một công thức phổ biến: mặt đỏ, mắt sáng, chân mày xếch, râu dài, năm chòm suôn đuột, mặc áo bào xanh, tay cầm Thanh Long đao, cỡi ngựa Xích Thố hoặc đứng theo thế tấn trong võ học, mũi đao hướng ra ngoài. Khi khắc họa hình tượng Quan Công trong tư thế đứng, nghệ nhân điêu khắc hoặc vẽ tranh thường cố gắng dùng các đường nét tinh tế để gợi cảm giác như cơ thể ông luôn dồn chứa một nguồn nội lực mạnh mẽ ẩn trong chiếc áo bào xanh có phần giản dị. Hòa vào không khí tâm linh huyền hoặc hương khói, tư thế đứng vừa oai phong, vững chãi vừa ung dung, mềm mại và thần thái nghiêm nghị của ông có thể làm cho người thiện lương phải kính sợ, khấu đầu còn kẻ ác tâm và ma quỷ thì hoảng hốt tránh xa.

Ấn tượng sâu đậm về dung mạo đặc biệt. dáng vẻ oai phong lẫm liệt của người anh hùng thời Tam Quốc, một vị thần linh ứng hiển hách được thể hiện rõ qua các câu đối tại nơi thờ phụng ông, trong đó, người sáng tác đặc biệt quan tâm đến các chi tiết ngoại hình có tính chất đặc thù, khó thể nhầm lẫn, đó là gương mặt đỏ và chiếc áo bào xanh. Không chỉ có ý nghĩa loại biệt, màu đỏ còn có tính chất ước lệ, phản ánh một nét tâm thức văn hóa đặc trưng. Đó không chỉ là màu được người Hoa rất ưa chuộng vì mang lại sự may mắn mà còn có ý nghĩa nhấn mạnh sự tương hợp giữa ngoại hình với tính cách (mặt đỏ- lòng son) theo quan điểm “tướng do tâm sinh” của người xưa. Màu xanh (chữ Hán là thanh ) lại đồng âm với chữ thanh nghĩa là trong sạch, trong suốt, thanh cao, chỉ khác nhau về hình chữ (chữ thanh nghĩa là trong sạch có thêm bộ thủy). Nếu mặt đỏ được đặt trong thế tương hợp với lòng đỏ (đan tâm, xích tâm) thì áo xanh hẳn nhiên cũng ít nhiều gợi nhắc đến tấm lòng trong sáng, thanh cao của người quân tử, đấng trượng phu. Các trường hợp tiêu biểu dưới đây cho thấy rõ nét đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa chân dung hình tượng Quan Công bằng cách tạo điểm nhấn dựa trên mối quan hệ của hai màu sắc có ý nghĩa biểu tượng là đỏ và xanh:

赤面赤心騎赤駒  

青衣青甲手青龍

Xích diện, xích tâm, kỵ Xích câu;

Thanh y, thanh giáp, thủ Thanh Long .      

Mặt đỏ, lòng đỏ, cỡi ngựa Xích Thố;        

Áo xanh, giáp xanh cầm đao Thanh Long[7]. (Quan Đế miếu- Long Xuyên)

赤兔嘶風驚吳曹之將士           

青龍偃月扶蜀漢之江山

Xích Thố tư phong, kinh Ngô Tào chi tướng sĩ ;

Thanh Long yển nguyệt, phù Thục Hán chi giang san .

Ngựa Xích Thố hí gió kinh hồn Ngô, Tào tướng sĩ;

Đao Thanh Long bán nguyệt phò tá Thục Hán giang san. 

(Quan Đế miếu- Châu Phú)

青衣讀春秋半朵燭光隆月色

赤心仲討伐一弰劍氣繞星寒

Thanh y độc xuân thu, bán đóa chúc quang long nguyệt sắc[8];

Xích tâm trọng thảo phạt, nhất sao kiếm khí nhiễu tinh hàn.

Aó xanh đọc Xuân Thu, nửa bó đuốc, ánh sáng ngời sắc nguyệt;

 Lòng đỏ giữa sa trường, một đốc kiếm, khí xông lạnh trời sao.

(Quan Đế cổ miếu- Tân Châu)

Người Hoa không chỉ kính sợ Quan Công bởi thần thái đầy uy vũ mà còn sùng mộ ông bởi tài năng, trí tuệ và những vẻ đẹp nhân cách ngời sáng được lý tưởng hóa. Ông là biểu tượng của tinh thần chính trực, khẳng khái, lòng trung nghĩa, phẩm chất thanh cao sáng ngời như mặt trăng, mặt trời, lại thông minh, sáng suốt, chăm đọc sử sách, văn chương che trùm sao Ngưu, sao Đẩu, võ công cái thế, một đao một ngựa, rong ruổi chinh chiến, oai vọng lớn lao, khiến anh hùng, sĩ tử thời Tam Quốc đều kinh tâm táng đởm:

正本清原丹心一點凌霄漢

精忠日月萬古文章貫斗牛

Chính bản thanh nguyên, đan tâm nhất điểm lăng Tiêu Hán ;

Tinh trung nhật nguyệt, vạn cổ văn chương quán Đẩu Ngưu .

Vốn chính trực thanh cao, một tấc lòng son vượt Tiêu Hán ;

Trung nghĩa ngời nhật nguyệt, vạn thuở văn chương che Đẩu Ngưu.

                                                    (Quan Đế miếu- Châu Phú)

匹馬斬顏良河北英雄皆喪胆

单刀會魯粛江南士子盡低頭

Thất mã trảm Nhan Lương, Hà Bắc anh hùng giai táng đởm;

Đơn đao hội Lỗ Túc, Giang Nam sĩ tử tận đê đầu.

Một ngựa chém Nhan Lương, anh hùng Hà Bắc đều vỡ mật;

Đơn đao gặp Lỗ Túc, sĩ tử Giang Nam thảy cúi đầu .

(Quan Đế Thánh miếu – PTân)

Ở nội dung này, người sáng tác thường chú ý khai thác các chi tiết được đại đa số quần chúng yêu thích, truyền tụng và có khả năng thể hiện một cách tập trung, sắc nét vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, phẩm chất của Quan Công như sở thích nghiền ngẫm kinh Xuân Thu; chong đèn đọc sách giữ lễ tiết, bảo vệ hai chị dâu trên đường tìm anh; để lại ấn tín, vàng bạc của Tào Tháo tặng trước khi rời Ngụy; qua năm ải chém sáu tướng, tha chết cho Tào Tháo ở Hoa Dung đạo để trả ơn xưa;... Những câu đối trong Quan Đế miếu ở Châu Phú và Long Xuyên được dẫn dưới đây là những trường hợp tiêu biểu cho sắc thái trang nghiêm, âm điệu hào hùng, vẻ đẹp cô đọng, hàm súc, đăng đối của lời văn tụng ca và các hình ảnh được sử dụng phổ biến khi tôn vinh vẻ đẹp tài trí, phẩm cách của Quan Công:        

騎赤兔過五關掛仰封金鳳眼羞看曹富貴

提青龍經百戰秉燈讀史虎威莫鎮漢乾坤

Kị xích thố, quá ngũ quan, quải ngưỡng phong kim, phượng nhãn tu khán Tào phú quý;

Đề thanh long, kinh bách chiến, bỉnh đăng độc sử, hổ uy mạc trấn Hán càn khôn. 

Cỡi  Xích Thố, qua năm ải[9], treo ấn từ lộc[10], mắt phượng thẹn nhìn phú quý họ Tào;

Cử Thanh Long, ruổi chinh chiến, chong đèn đọc sử, uy hổ trấn giữ giang sơn nhà Hán.

秉燭不避慊此夜心中懷有漢

華容非報義當年目下視無曹

Bỉnh chúc bất tị hiềm, thử dạ tâm trung hoài hữu Hán;

Hoa Dung phi báo nghĩa, đương niên mục hạ thị vô Tào.

Thắp đuốc để tránh nghi ngờ, đêm ấy, trong lòng chỉ có Hán;

Hoa Dung không vì trả nghĩa, năm xưa, dưới mắt chẳng nhìn Tào.

Đặc biệt, hai câu đối ca ngợi chí khí lẫm liệt, tinh thần trung nghĩa ngời sáng của Quan Công được dẫn dưới đây xuất hiện rất phổ biến không chỉ trong các di tích chùa miếu của người Hoa mà còn trong các di tích đình, chùa người Việt có phối thờ Quan Công ở An Giang nói riêng và khắp Đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Từ góc nhìn giao lưu, tiếp biến văn hóa, đây là một trong những minh chứng vừa cho thấy tính chất hỗn dung về tín ngưỡng do đặc trưng của đời sống cộng cư nhiều dân tộc trên vùng đất mới; vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ của cư dân người Việt đối với một vị anh hùng có tính cách trượng nghĩa, khinh tài, hào hiệp, khẳng khái, rất phù hợp với tính cách của lớp lưu dân đàng ngoài trong buổi đầu vào khai phá đất phương Nam:  

千秋義勇無雙仕

萬古精忠第壹人

Thiên thu nghĩa dũng vô song sĩ ;

Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhân.

Ngàn thu nghĩa dũng vô song sĩ

Vạn thuở trung trinh đệ nhất nhân

志在春秋功在漢

忠同日月義同天

Chí tại Xuân Thu, công tại Hán;

Trung đồng nhật nguyệt, nghĩa đồng thiên .

Chí ở Xuân Thu, công tại Hán

Trung sánh nhật nguyệt, nghĩa sánh trời 

Âm điệu tụng ca cũng là âm điệu chủ đạo trong những câu đối có nội dung khái lược các sự kiện quan trọng, các chiến tích lẫy lừng trong cuộc đời người anh hùng đệ nhất thời Tam Quốc. Trong những trường hợp tiêu biểu dưới đây được ghi nhận ở Quan Thánh miếu (Long Xuyên), người sáng tác đã khéo léo xâu chuỗi những chi tiết trùng lặp rồi kết hợp với thủ pháp điệp tự để đúc kết toàn bộ cuộc đời, công tích của Quan Công một cách cô đọng, hàm súc bằng những điểm nhấn tạo ấn tượng khá sâu sắc và thú vị:

生蒲州事豫州戰徐州守荆州神州有赫

兄玄德弟翼德捦龐德放孟德志德無雙[11]

Sinh Bồ Châu, sự Dự Châu, chiến Từ Châu, thủ Kinh Châu, thần châu hữu hách;

Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, cầm Bàng Đức, phóng Mạnh Đức, chí đức vô song.

Sinh Bồ Châu, phụng sự ở Dự Châu, đánh Từ Châu, trấn Kinh Châu, thần châu[12] hiển hách có một

Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt Bàng Đức, tha Mạnh Đức, chí khí đức độ không hai[13]

兄玄德弟翼德丹心振德

師卧龍友子龍保護真龍

Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, đan tâm chấn đức;

Sư Ngọa Long, hữu Tử Long, bảo hộ chân long .

Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, lòng son chấn đức;

Thầy là Ngọa Long, bạn là Tử Long, bảo vệ chân long[14].

Trong một câu đối ở Quan Đế cổ miếu (Tân Châu), người sáng tác không chỉ cô đúc được những chiến công lẫy lừng của vị đại khai quốc công thần nước Thục mà còn phản ánh được quá trình bất tử hóa, thần thiêng hóa từ nhân vật Quan Công trong chính sử trở thành một vị thần được phong vương vào đời Tống rồi phong đế vào đời Minh (Quan Thánh Đế Quân).  

伏吴魏以興劉耿耿丹心昭日月

封候王而至帝巍巍義氣配乾坤

Phục Ngô, Ngụy dĩ hưng Lưu[15], cảnh cảnh đan tâm chiêu nhật nguyệt ;

Phong hầu vương nhi chí đế, nguy nguy nghĩa khí phối càn khôn.

Phục Ngô, Ngụy để hưng Lưu, lòng son chói ngời cùng nhật nguyệt;

Phong hầu, vương rồi tới đế, nghĩa khí lồng lộng sánh càn khôn .

Bên cạnh những nội dung ca ngợi dáng vẻ oai phong, chí khí lẫm liệt, tài năng, trí tuệ, phẩm chất ngời sáng và những chiến công lẫy lừng của người anh hùng đệ nhất thời Tam Quốc, hệ thống câu đối trong các di tích chùa, miếu thờ Quan Công ở An Giang còn chứa đựng những thông điệp có ý nghĩa giáo huấn lòng kính tín, biết ơn vị thần đã âm phù cho các thế hệ di dân người Hoa khi đến định cư trên vùng đất mới; nhắc nhở con cháu phải biết tu dưỡng đạo đức, học tập đức tính trung, hiếu, tín, nghĩa của ông. Nhiều câu đối hàm ý nhắc nhở rằng khí khái lẫm liệt, tấm gương trung nghĩa ngời sáng của Quan Công từ ngàn xưa vẫn còn lưu dấu và mong mỏi rằng ông sẽ mãi mãi âm phù, khôn thiêng che chở, giúp cho cư dân có cuộc sống bình yên sung túc trên vùng đất mới:

正氣滿乾坤北魏東吳何在

英名高豫益青龍赤兔如存

Chính khí mãn càn khôn Bắc Ngụy, Đông Ngô hà tại;

Anh danh cao Dự, Ích[16], Thanh Long, Xích Thố như tồn.

Chính khí lấp đất trời, Bắc Ngụy, Đông Ngô nào đâu tá;

Thanh danh cao Dự, Ích, Thanh Long, Xích Thố vẫn còn đây.  

(Quan Thánh miếu- Châu Đốc)

威德配山川千秋香煙盛

靈通同天地顯祐保全民

Uy đức phối sơn xuyên, thiên thu hương yên thịnh;

Linh thông đồng thiên địa, hiển hựu bảo toàn dân.

Oai đức sánh núi sông, ngàn thu hương khói thịnh;

Linh thông cùng trời đất, hiển hách trợ toàn dân .

                                  (Quan Đế cổ miếu- Tân Châu)

Với phẩm chất “tuyệt trung nghĩa”, ông còn được kính tín như một vị thần công lý, luôn bảo vệ lẽ phải, có thể thấu tỏ, minh định, phát hiện người ngay, kẻ gian; có thể chứng chiếu, bênh vực cho những tấm lòng thiện lương, trung hậu, biết giữ tín nghĩa nhưng cũng có thể trừng phạt kẻ gian dối, lừa đảo, vong tình bội nghĩa, bất tín, tráo trở lừa gạt. Một vài giai thoại cho biết khi việc kinh doanh, hùn hạp có tranh chấp, người Hoa thường đem nhau đến trước bàn thờ Quan Công để thề thốt, nhờ ông chứng giám[17]. Vì lẽ đó, trong một câu đối ở Quan Thánh miếu (Long Xuyên), người sáng tác đã có ý nhắc nhở bất kỳ ai đến chỗ thờ phụng Quan Công rằng phải thực sự nghiêm cẩn, tự xét mình, phải giữ lòng thuần thành khi vào miếu chiêm bái, cầu xin:     

有半點忠孝心腸方可豋堂頂禮

無一分兄弟情義何容入廟燒香

Hữu bán điểm trung hiếu tâm trường, phương khả đăng đường đảnh lễ;

Vô nhất phần huynh đệ tình nghĩa, hà dung nhập miếu thiêu hương.

Có nửa điểm gan ruột trung hiếu mới được đăng đường đảnh lễ;

Không một phần tình nghĩa huynh đệ sao cho vào miếu thắp hương.

4.  Từ trong lịch sử, Quan Công, một vị võ tướng, anh hùng thời Tam Quốc, đã hóa thân hoàn hảo thành một nhân vật được đặc biệt yêu mến, ngưỡng mộ trong giai thoại dân gian và văn chương bác học, rồi được bất tử hóa, thần thiêng hóa trong đời sống tín ngưỡng Trung Hoa. Theo bước chân của những thế hệ Hoa kiều, Khách trú, tín ngưỡng thờ Quan Công lại tiếp tục tạo nên những vòng sóng tâm thức, lan tỏa từ trung tâm ra các vùng ngoại biên, bất kỳ nơi nào có di dân người Hoa đến định cư, lập nghiệp. Thậm chí, khi du nhập vào vùng đất Nam bộ, tín ngưỡng thờ Quan Công không chỉ bắt gốc bén rễ trong đời sống văn hóa của cộng đồng người Hoa mà còn vươn cành, tỏa bóng, mở rộng tầm ảnh hưởng, giao thoa, tạo thành đặc điểm hỗn dung, phức hợp tín ngưỡng độc đáo trong đời sống văn hóa của người Việt. Rõ ràng, đây là một diễn trình lâu dài và phức tạp mà muốn lý giải, dứt khoát cần phải nhìn sâu vào bản chất của một hình mẫu lý tưởng có thể tích hợp trong nó những hằng số đạo đức mà con người hướng thiện dù ở thời đại nào cũng xem là chuẩn mực cần phấn đấu tu dưỡng để thành công, thành danh hay ít nhất cũng thành nhân. Từ lý do nêu trên, có thể khẳng định rằng: Nếu tín ngưỡng thờ Quan Công được xem là một phần đóng góp vào bức tranh đa diện, đa sắc của vùng văn hóa Nam bộ thì hệ thống câu đối tại các di tích chùa, miếu thờ Quan Công của người Hoa cũng đã đóng góp được một dấu ấn, một tiếng nói riêng, để cùng với các tác phẩm văn chương khác của hai dân tộc Việt, Hoa tạo thành nét đặc sắc của bộ phận văn chương Hán Nôm trên vùng đất mới./.    

                                                                                                        Nguyễn Kim Châu 

Bài đã đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.2019 

                                                                                   



[1] Quốc sử quán triều Nguyễn- Quốc triều chính biên toát yếu- Tổng tài Quốc sử quán Cao Xuân Dục chủ biên, NXB Thuận Hóa, Huế 1998,  trang 129.

[2] Quốc triều chính biên toát yếu, Sđd, trang 137.

[3] Đào Trinh Nhất, Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,  2016, trang 103.

[4] Một số ý kiến cho rằng Quan Công sinh năm 160 mất năm 220.

[5] Tâm lý cực đoan thể hiện rõ qua cách khắc họa ba hình tượng nhân vật thời Tam Quốc được mệnh danh là “Tam tuyệt” gồm: Quan Công (tuyệt trung nghĩa), Khổng Minh (tuyệt tài trí), Tào Tháo (tuyệt gian hùng)

[6] Dữ liệu về các di tích và văn bản câu đối tại các di tích là kết quả khảo sát thực địa trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu sưu tầm di sản Hán Nôm An Giang phục vụ bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch” (2017- 2018) do PGS.TS Nguyễn Kim Châu chủ trì đề tài.  

[7] Tất cả bản phiên âm Hán Việt và dịch nghĩa trong bài là của người viết. Khi dịch, người viết đã cố gắng thoát ý để thể hiện phần nào tính chất đăng đối, vẻ đẹp thẩm mỹ đặc trưng của câu đối cổ.

[8] Trong lần đưa hai chị dâu là Cam, My phu nhân đi tìm Lưu Bị, nửa đêm, để giữ lễ, Quan Công thắp đuốc, thức đọc kinh Xuân Thu canh cửa, bảo vệ hai chị. 

[9] Tích Quan Công đưa hai chị đi tìm Lưu Bị, qua năm ải, chém sáu tướng của Tào Tháo.

[10] Tích Quan Công, khi bỏ Tào Tháo ra đi, treo ấn lên sảnh đường, vàng bạc của cải đã nhận của Tào Tháo đều để lại.

[11] Câu đối này cũng xuất hiện trong các hội quán, chùa,  miếu thờ Quan Công của người Hoa ở nhiều nơi tại Nam bộ. Ở mỗi nơi, có thể có một số khác biệt về từ ngữ. Chẳng hạn, trong Sài Gòn năm xưa, NXB TP Hồ Chí Minh, 1991, Vương Hồng Sển, khi đến Nghĩa Nhuận hội quán ở Chợ Lớn, đã cho biết: “Lạ nhứt và mừng nhứt là được gặp tại đây câu liễn thờ Quan Đế bấy lâu nghe đồn mà không biết ở đâu, trong câu, gồm hết một bộ truyện Tam Quốc”. Đó là câu đối sau: “Sinh Bồ Châu, sự Dự Châu, chiến Từ Châu, thủ Kinh Châu, vạn cổ thần châu hữu nhứt- Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, xá Bàng Đức, thích Mạnh Đức, thiên thu thánh đức vô song”.   So  với câu đối tại Quan Thánh miếu ở Long Xuyên, câu đối tại Nghĩa Nhuận hội quán (Chợ Lớn) có vài khác biệt như dùng chữ nhứt (nhất) trong “hữu nhứt” để đối với “vô song” ở vế dưới (hợp lý hơn) hoặc thêm cụm từ vạn cổ, thiên thu. Xin xem sách đã dẫn trang 209.

[12] Thần châu: chỉ Trung Quốc.

[13] Câu đối nêu quê hương, gốc tích và những công trạng của Quan Công,: Ông là anh em kết nghĩa với Lưu Huyền Đức (Lưu Bị), Trương Dực Đức (Trương Phi), chém Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ Châu, nhận lệnh trấn giữ đất Kinh Châu, bắt rồi sau đó chém Bàng Đức, một viên tướng của Mã Đằng, Mã Siêu ở Khoái Khẩu và tha chết cho Tào Tháo (Mạnh Đức) trong trận Xích Bích nổi tiếng.

[14] Ngọa Long: Khổng Minh. Tử Long: Triệu Tử Long, một trong những vị tướng tài nổi tiếng của Lưu Bị. 

[15] Ngô, Ngụy, Lưu : Tức ba nước Ngô, Ngụy, Thục thời Tam quốc.

[16] Dự châu, Ích Châu: Nơi ghi dấu những công lao của Quan Công trong thời gian phò tá cho Lưu Bị.  

[17] Theo Trương Ngọc Tường trong Đặc khảo văn hóa người Hoa ở Nam bộ, Viện Văn hóa- Nghệ thuật Việt Nam, Phân viện Văn hóa- Nghệ thuật Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012, trang 124. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét